CHUYÊN MỤC THÔNG TIN BẦU CỬ

* 75 NĂM NGÀY TỔNG TUYỂN CỬ ĐẦU TIÊN: KHÔNG NGỪNG ĐỔI MỚI VÌ LỢI ÍCH CỦA DÂN

28/01/2021 01:11 80 lượt xem

Cách đây 75 năm, cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội đầu tiên đã diễn ra trên cả nước. Đây là sự kiện chính trị quan trọng trong lịch sử nước ta khi lần đầu tiên toàn thể nhân dân được hưởng quyền làm chủ trong việc sáng suốt lựa chọn, bầu ra những người đại diện xứng đáng thay mặt nhân dân gánh vác công việc chung của đất nước.

Trải qua 75 năm hình thành và phát triển, Quốc hội Việt Nam không ngừng đổi mới trên các lĩnh vực hoạt động, khẳng định vị trí, vai trò là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Bước phát triển nhảy vọt đầu tiên về thể chế dân chủ

Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Bác Hồ đã chỉ đạo phải tập trung tổ chức càng sớm càng tốt cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc dân đại hội (Quốc hội).

           Bác đã ký Sắc lệnh số 14 ngày 8/9/1945 và Sắc lệnh số 51 ngày 17/10/1945 về tổ chức tổng tuyển cử. Trên cơ sở sắc lệnh đó, cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã được tiến hành ngày 06/01/1946.

          Cuộc tổng tuyển cử đầu tiên được tiến hành theo nguyên tắc dân chủ, tiến bộ, đó là phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín đã hoàn toàn thắng lợi. Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Quốc hội đã cử ra Chính phủ chính thức, ấn định cho Việt Nam một Hiến pháp dân chủ. Thắng lợi đó là một mốc son đánh dấu bước phát triển nhảy vọt đầu tiên về thể chế dân chủ của nước Việt Nam .

Thắng lợi của cuộc tổng tuyển cử cũng đánh dấu bước trưởng thành của Nhà nước cách mạng Việt Nam, mở ra một thời kỳ mới, thời kỳ đất nước ta có một Quốc hội, một Chính phủ thống nhất, một Hiến pháp tiến bộ và một hệ thống chính quyền hoàn toàn đầy đủ danh nghĩa về mặt pháp lý để đại diện cho nhân dân Việt Nam về đối nội, đối ngoại. Cuộc bầu cử là căn cứ để khẳng định Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có tính chất hợp pháp, dân chủ - nhà nước của dân, do dân và vì dân, được quốc dân giao phó trọng trách điều hành đất nước, tổ chức toàn dân kháng chiến kiến quốc, giải quyết mọi quan hệ của Việt Nam trên trường quốc tế.

Đổi mới công tác lập pháp

Kể từ cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên năm 1946 đến nay, trải qua 14 nhiệm kỳ hoạt động, Quốc hội Việt Nam không ngừng trưởng thành, đã đạt được những thành tựu quan trọng trong hoạt động lập hiến, lập pháp, giám sát tối cao và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, góp phần to lớn vào thành tựu chung của công cuộc đổi mới, nâng cao vai trò, vị thế của nước ta trên trường quốc tế.

Từ Quốc hội khóa I cho đến nay, Quốc hội đã ban hành 5 bản Hiến pháp (chưa kể các bản Hiến pháp sửa đổi, bổ sung): Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 và Hiến pháp 2013, qua đó kế thừa và hoàn thiện Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của đất nước trong từng giai đoạn lịch sử. Cùng với sự phát triển lớn mạnh của đất nước, trong 75 năm qua, nhiều đạo luật quan trọng đã được Quốc hội ban hành góp phần thể chế hóa quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện quản lý xã hội theo hiến pháp và pháp luật.

Đặc biệt, bước vào công cuộc đổi mới, việc chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa chỉ huy (quan liêu, bao cấp) sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước (điều tiết vĩ mô), nay là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi hệ thống luật pháp phải đổi mới nhằm đáp ứng yêu cầu thực tế.

Theo Tiến sỹ Bùi Ngọc Thanh, Nguyên Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, nếu như 7 khóa Quốc hội đầu tiên (từ năm 1946 đến đầu năm 1987), hơn 40 năm Quốc hội chỉ ban hành được 29 đạo luật, thì Quốc hội Khóa VIII (1987-1992), khóa đầu tiên bước vào công cuộc đổi mới, trong 5 năm Quốc hội đã ban hành tới 31 đạo luật; Khóa IX là 41 luật và bộ luật, Khóa X là 35 đạo luật. Khóa XI, Quốc hội đã xây dựng 84 luật; khóa XII chỉ có 4 năm, Quốc hội cũng đã xây dựng được 67 luật và đến khóa XIII là 89 luật. Khóa XIV hiện nay, từ 2016 đến cuối 2020, Quốc hội thông qua được khoảng 80 đạo luật. Các đạo luật được xây dựng trong công cuộc đổi mới, về nội dung khác đến 90 - 95% so với thời kỳ thực thi nền kinh tế kế hoạch hóa chỉ huy. Nhìn chung, tốc độ xây dựng luật của Quốc hội trong công cuộc đổi mới tăng nhanh; chất lượng, nội dung được bảo đảm, từng bước đáp ứng yêu cầu xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ, góp phần đắc lực vào việc thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Trong quá trình phát triển, Quốc hội đã có nhiều quyết sách quan trọng như quyết định tổ chức và nhân sự cấp cao của Nhà nước; xem xét, thông qua các nghị quyết về nhiệm vụ, các kế hoạch kinh tế - xã hội hàng năm và 5 năm; Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm; phê chuẩn các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập. Quốc hội cũng quyết định chủ trương đầu tư xây dựng các công trình quan trọng quốc gia như: đường Hồ Chí Minh, đường dây truyền tải điện 500kV Bắc - Nam , nhà máy khí điện đạm Bà Rịa - Vũng Tàu, nhà máy thủy điện Sơn La. .. tạo tiền đề cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Tại mỗi kỳ họp, Quốc hội dành nhiều thời gian để xem xét, thảo luận về các báo cáo của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo luật định; tăng cường giám sát chuyên đề, tập trung vào các vấn đề bức xúc của cuộc sống mà cử tri quan tâm; nâng cao hiệu quả chất vấn và trả lời chất vấn, tạo không khí cởi mở, dân chủ trong hoạt động của Quốc hội. Việc tổ chức lấy phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức vụ được Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn cũng đã tạo ra động lực để các bộ trưởng, trưởng ngành đổi mới mạnh mẽ trong công tác chỉ đạo, điều hành.

Dấu ấn của Quốc hội vì dân

Thực hiện hiệu quả phương châm “Đoàn kết, đổi mới, sáng tạo, hành động vì lợi ích của nhân dân”, Quốc hội đã đổi mới mạnh mẽ cả về tổ chức và hoạt động. Cách thức điều hành có nhiều thay đổi, việc ứng dụng công nghệ thông tin được áp dụng mạnh mẽ, giúp khoảng cách giữa các đại biểu với cử tri ngày càng được thu hẹp, thực sự là những đại biểu của dân, do dân và vì dân.

            Năm 2019, lần đầu tiên Quốc hội áp dụng công nghệ của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và trí tuệ nhân tạo trong việc điều hành kỳ họp. Theo đó, tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội thí điểm thực hiện, tất cả file âm thanh được chuyển thành chữ chạy trên màn hình của chủ tọa, giúp cho việc điều hành chính xác hơn. Tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội tiến hành chính thức việc này. Sự đổi mới này là cách để nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Quốc hội, xây dựng Quốc hội điện tử.

Đặc biệt, năm 2020, trước ảnh hưởng nặng nề của đại dịch COVID-19, một lần nữa, những dấu ấn của Quốc hội vì dân tiếp tục được thể hiện đậm nét. Trong những phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội trước kỳ họp thứ 9, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân nhiều lần lưu ý phải tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong bộ máy Nhà nước, ảnh hưởng của dịch bệnh nhưng không có nghĩa để mọi việc đình trệ. Công việc vẫn phải thực hiện trôi chảy theo kế hoạch, phải thay đổi phương thức làm việc. Nói là làm, Quốc hội đã thực hiện đổi mới bằng việc lần đầu tiên tổ chức họp trực tuyến.

Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV mang đấu ấn đặc biệt bởi đây là lần đầu tiên trong hơn 70 năm qua, Quốc hội Việt Nam họp trực tuyến liên tục nhiều ngày trong đợt 1 (từ ngày 20-28/5). Với hình thức họp trực tuyến, đại biểu tại điểm cầu của 63 Đoàn đại biểu Quốc hội thực hiện đăng ký phát biểu, tranh luận qua đường dây nóng. Đại biểu tại Hội trường Diên Hồng đăng ký phát biểu và tranh luận như các kỳ họp trước. Danh sách đăng ký phát biểu được kịp thời cập nhật vào hệ thống điều hành của Đoàn Chủ tịch theo thứ tự đăng ký của đại biểu và được thể hiện trên màn hình tại Hội trường Diên Hồng. Các đại biểu Quốc hội sử dụng phần mềm cài đặt trên máy tính bảng để biểu quyết. Kết quả biểu quyết sẽ được hiện trên màn hình ở Hội trường Diên Hồng. Việc cung cấp thông tin cho các đại biểu Quốc hội vẫn được duy trì và bảo đảm thực hiện thông qua các phần mềm ứng dụng...

Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển nhìn nhận, hình thức Quốc hội họp trực tuyến thể hiện sự đổi mới, linh hoạt trong hoạt động của Quốc hội, song vẫn bảo đảm duy trì không khí dân chủ, công khai của kỳ họp Quốc hội theo đúng quy định của pháp luật. Theo đánh giá của nhiều đại biểu, hình thức họp trực tuyến không những mang lại hiệu quả cao, mà còn có nhiều lợi thế hơn so với hình thức họp tập trung như giúp tiết kiệm về ngân sách; đại biểu ở địa phương không phải di chuyển nhiều; lãnh đạo địa phương cũng có điều kiện tham gia họp trực tuyến tại nhiều đầu cầu; nhiều cán bộ, công chức hoặc lãnh đạo các văn phòng, sở, ngành… cũng được mời tham gia họp ở các đầu cầu.

Cũng do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, lần đầu tiên trong lịch sử của AIPA, Đại hội đồng AIPA diễn ra từ ngày 8-10/9/2020 được tổ chức theo hình thức trực tuyến. Với sự dẫn dắt, điều hòa của Quốc hội Việt Nam , Đại hội đồng AIPA 41 đã thành công tốt đẹp. Điều này thể hiện qua sự tham gia đông đủ, ủng hộ của các Nghị viện thành viên, các Nghị viện quan sát viên và nhiều tổ chức Nghị viện quốc tế.

Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân đánh giá trong chặng đường 25 năm qua, Quốc hội Việt Nam đã có nhiều đóng góp quan trọng, phát triển mạnh mẽ và góp phần vào việc củng cố, hoàn thiện bộ máy, tổ chức của AIPA. Thành công của Năm Chủ tịch AIPA 2020 và Đại hội đồng AIPA 41 là bước tiếp nối những đóng góp của Quốc hội Việt Nam trong quá trình phát triển của AIPA.

          Có thể nói, 75 năm qua, Quốc hội luôn là hiện thân của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, không ngừng đổi mới, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của mỗi giai đoạn cách mạng, xứng đáng là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, hoạt động ngày càng chất lượng, tạo lập được sự tin tưởng và những ấn tượng tốt đẹp trong lòng cử tri cả nước. Những thành quả này tiếp tục tạo tiền đề thuận lợi cho sự phát triển của Quốc hội trong thời gian tới, là cơ sở quan trọng để đảm bảo thành công cho sự phát triển đất nước.

* “Trích” Nghị quyết số 05-NQ/TU, ngày 01/12/2020 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về cải tạo vườn tạp, phát triển kinh tế vườn hộ để tạo sinh kế cho người dân, giảm nghèo bền vững, giai đoạn 2021-2025.

I- QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU

1. Quan Điểm chỉ đạo

Cải tạo vườn tạp phải được triển khai một cách đồng bộ từ các cấp, các ngành đến người nông dân, với quan điểm “Không nóng vội, không thành tích, (dễ làm trước, khó làm sau”,mục tiêu cốt lõi là thay đổi tư duy và phương pháp chăn nuôi, trồng trọt trên chính mảnh đất vườn của mình, từ đó tăng dinh dưỡng, tạo sinh kế, tăng thu nhập, giảm nghèo bền vững. Thay đổi nhận thức, phong tục, thói quen tập quán, chuyên đổi canh tác từ cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế thấp sang cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao hơn. Các cấp ủy, chính quyền từ tỉnh đến thôn, tổ dân phố phải vào cuộc phụ trách, giúp đỡ hộ nghèo, hộ cận nghèo cải tạo vườn tạp và hướng dẫn, chuyển giao khoa học công nghệ.

Tỉnh tạo cơ chế hỗ trợ cho những hộ nghèo, cận nghèo cải tạo vườn tạp. Ưu tiên nguồn lực hỗ trợ cho đối tượng hộ nghèo, hộ cận nghèo, lồng ghép từ các chương trình, mục tiêu, nguồn vốn của Trung ương thuộc hợp phần hỗ trợ sản xuất nông lâm nghiệp, thủy sản để cải tạo vườn tạp, phát triển kinh tế vườn hộ.

2. Mục tiêu

Khai thác tối đa tiềm năng phát triển kinh tế vườn hộ, nâng giá trị thu nhập trên đơn vị diện tích canh tác tăng nhiều lần so với trước khi cải tạo.

Thay đổi tư duy nhận thức của người dân về trồng trọt, chăn nuôi sản xuât nông nghiệp; hướng dẫn ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, đặc biệt là giống và quy trình sản xuất để tăng năng suất, chất lượng phù hợp phát triển kinh tế vườn hộ.

Tạo động lực để người dân làm giàu thêm đối với hộ khá; tạo tư liệu sản xuất cho hộ nghèo, hộ cận nghèo có ý chí tự vươn lên thoát nghèo trên mảnh vườn của mình, không trông chờ vào sự hỗ trợ của nhà nước.

Phấn đấu đến hết năm 2025, cải tạo vườn tạp, phát triển kinh tế vườn có thu nhập khá cho trên 6.500 hộ tương ứng với trên 6.500 vườn.

II- NHIỆM VỤ VÀ CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU

1. Nhiệm vụ

Quy hoạch, sắp xếp bố trí cấu trúc lại không gian vườn hộ một cách hợp lý, khoa học, phù hợp quy mô thực tiễn từng hộ, đảm bảo vệ sinh môi trường nông thôn “Xanh - sạch - đẹp”, giữa nhà ở - khu vực chăn nuôi - vườn hộ.

Cơ cấu lại giống cây trồng, vật nuôi có chu kỳ sản xuất ngắn, đưa các cây, con giống tốt có năng suất cao vào sản xuất như: rau, củ, quả, nấm, cây dược liệu; phát triển chăn nuôi lợn, dê, gia cầm, thủy sản để tăng thêm thu nhập cho người dân, đặc biệt hộ nghèo, hộ cận nghèo.

Liên kết giữa các hộ liền kề trong cùng một thôn để hình thành vùng sản xuất hàng hóa gắn với tiêu thụ sản phẩm.

Thí điểm cải tạo, xếp đá đổ tầng đất mặt để tạo vườn đối với các hộ nghèo, hộ cận nghèo của 4 huyện phía Bắc có khó khăn về đất sản xuất.

Huy động cả hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở vào cuộc, chung tay giúp đỡ người dân, đặc biệt hộ nghèo, hộ cận nghèo cải tạo vườn tạp bằng những việc làm thiết thực: Giúp đỡ ngày công lao động, hỗ trợ vật tư, giống phân bón; hỗ trợ áp dụng khoa học công nghệ, xúc tiến kết nối tiêu thụ sản phẩm.

2. Các giải pháp chủ yếu

2.1. Về công tác lãnh đạo, chỉ đạo

Thành lập Ban chỉ đạo thực hiện Nghị quyết về cải tạo vườn tạp, phát triển kinh tế vườn hộ, tạo sinh kế, giảm nghèo bền vừng từ cấp tỉnh đến cấp xã Quán triệt đến các chi bộ, nhân dân để thống nhất trong nhận thức và hành động tổ chức thực hiện.

Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội tuyên truyền, vận động hội viên, đoàn viên tham gia giúp đỡ hộ nghèo, hộ cận nghèo cải tạo vườn tạp.

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng về phương thức lãnh đạo, chỉ đạo, sáng tạo của cấp ủy, cách làm hay, mô hình cải tạo vườn tạp có hiệu quả của hộ gia đình để các địa phương, các hộ khác thăm quan, học tập kinh nghiệm, lan tỏa và làm theo.

2.2.Về ứng dụng khoa học kỹ thuật, khuyến nông và tiêu thụ sản phẩm

Đẩy mạnh việc ứng dụng khoa học vào sản xuất, chuyển giao kết quả nghiên cứu khoa học của các đề tài, dự án nghiên cứu thành công về cây, con giống đến từng người dân tham gia cải tạo vườn tạp. Phát huy vai trò của các trung tâm khoa học trên địa bàn tỉnh để sản xuất giống tại chỗ, cung ứng giống tốt phù hợp với từng khu vực, địa phương.

Xác định đội ngũ cán bộ khuyến nông các cấp là lực lượng nòng cốt tập huấn, chuyển giao, phụ trách đến hộ gia đình để hướng dẫn kỹ thuật theo hướng “Cầm tay chỉ việc; phương pháp hội thảo đầu bờ, tham quan thực tế trên vườn hộ”; vận động người dân áp dụng biện pháp thâm canh; sử dụng giống tốt; sử dụng thuốc bảo vệ thực vật an toàn để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm.

           Hình thành các nhóm sở thích, tổ hợp tác liên kết sản xuất thông qua các Hợp tác xã nông nghiệp, cung ứng sản phẩm ra thị trường trước mắt, chủ yếu là nội tiêu. Các cấp, các ngành làm khâu trung gian kết nối tiêu thụ sản phẩm cho người dân.

2.3. Về cơ chế, chính sách và nguồn lực thực hiện

Hội đông nhân dân tỉnh ban hành cơ chế cho các hộ nghèo, hộ cận nghèo vay vốn với lãi suất bằng 0% thông qua ngân sách tỉnh ủy thác qua Ngân hàng chính sách xã hội tỉnh và có thể mở rộng cho các hộ khác khi hộ nghèo, cận nghèo không có nhu cầu vay.

Công khai, minh bạch trong triển khai chính sách, đơn giản hóa các thủ tục hành chính để hộ nghèo, hộ cận nghèo dễ tiếp cận được với nguồn vốn cho vay. Có phương án hỗ trợ hộ nghèo, hộ cận nghèo vay vốn gặp rủi ro, bất khả kháng trong sản xuất.

Sử dụng nguồn ngân sách tỉnh để hỗ trợ cải tạo vườn tạp, phát triển kinh tế vườn hộ. Ủy ban nhân dân tỉnh cân đối nguồn ngân sách địa phương hằng năm theo quy định để cấp ủy thác cho Ngân hàng chính sách xã hội theo tiến độ giai ngân; sử dụng vốn đúng mục đích, phát huy hiệu quả.

Đẩy mạnh công tác xã hội hóa việc hỗ trợ cải tạo vườn tạp bằng cách huy động sự vào cuộc của cấp ủy, chính quyền, các ngành, tổ chức chính trị - xã hội từ tỉnh đến huyện, xã phụ trách trực tiếp giúp đỡ hộ nghèo, hộ cận nghèo quy hoạch, chuyển giao khoa học, công nghệ cải tạo vườn tạp để phát triển kinh tế vườn hộ. Hỗ trợ ngày công lao động để cải tạo, chỉnh trang lại vườn tạp mà nòng cốt là lực lượng đoàn viên, hội viên của các tổ chức chính trị - xã hội, chiến sỹ lực lượng vũ trang.

Lông ghép với các chính sách hỗ trợ của Trung ương theo Nghị quyết 88/2019/QH14 của Quốc hội về phê duyệt đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đông bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030; Chương trình giam nghèo; Chương trình xây dựng nông thôn mới; nguồn kinh phí theo Nghị quyết số 09/2018/NQ-HĐND của Hội đồng nhân dân tỉnh về chính sách hỗ trợ liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp trên địa bàn tỉnh cho hộ nghèo, cận nghèo đáp ứng được tiêu chí của chính sách.

III- TỔ CHỨC THỰC HIỆN

1. Các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội; các cơ quan, đơn vị tổ chức quán triệt, phổ biến nghị quyết này đến cán bộ, đảng viên, đoàn viên và các tầng lớp nhân dân trên địa bàn tỉnh; xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể hằng năm để thực hiện; định kỳ báo cáo kết quả thực hiện với Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh.

2. Giao Đảng đoàn Hội đồng nhân dân tỉnh chỉ đạo Hội đồng nhân dân tỉnh ban hành nghị quyết về chính sách hỗ trợ cải tạo vườn tạp để triển khai Nghị quyết và giám sát việc thực hiện.

3. Giao Ban Cán sự Đảng ủy ban nhân dân tỉnh lãnh đạo Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ đạo triển khai tổ chức thực hiện hiệu quả; rà soát xây dựng cơ chế hỗ trợ tích hợp vào chính sách phát triển sản xuất nông lâm nghiệp trình kỳ họp Hội đồng nhân dân tỉnh. Định kỳ báo cáo kết quả thực hiện với Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh.

4. Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy chủ trì, phối hợp với các Ban Đảng Tỉnh ủy tham mưu cho Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh kiểm tra, giám sát việc thực hiện Nghị quyết.

5. Văn phòng Tỉnh ủy chủ trì, phối họp với các Ban Đảng Tỉnh ủy theo dõi, đôn đốc việc triển khai thực hiện, định kỳ tổng hợp báo cáo Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh.

Nghị quyết này được phổ biến đến các chi bộ, cán bộ và nhân dân trong toàn tỉnh để thực hiện.

* Bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 trên địa bàn huyện Đồng Văn

          * Công tác Tuyên truyền

Nội dung tuyên truyền về các quy định của Hiến pháp, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân; Luật Tổ chức Quốc hội; Luật Tổ chức chính quyền địa phương và Luật Tổ chức chính quyền địa phương sửa đổi, các Hội nghị hiệp thương; về vị trí vai trò của người đại biểu Nhân dân; về quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của công dân trong việc xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả... Tập trung tuyên truyền trong thời gian bầu cử để động viên cử tri tự giác tích cực và chủ động tham gia bầu cử, nghiên cứu kỹ về danh sách người ứng cử; tuyên truyền để mỗi cán bộ, đảng viên phải gương mẫu, đề cao trách nhiệm tuyên truyền vận động nhân dân tích cực tham gia bầu cử Kết thúc bầu cử, tăng cường tuyên truyền về kết quả và thành công của cuộc bầu cử. Việc tuyên truyền cơ bản được thực hiện thành 3 đợt, gồm:

Đợt 1 (Trước bầu cử, từ nay đến trước ngày bầu cử khoảng 25 ngày): Tập trung tuyên truyền về Hiếp pháp, Chỉ thị của Bộ Chính trị, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân, các văn bản của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng bầu cử quốc gia, Chính phủ; đặc biệt là về tiêu chuẩn đại biểu Quốc hội, tiêu chuẩn đại biểu Hội đồng nhân dân, các quy định về giới thiệu người ứng cử, tự ứng cử, về quyền bầu cử của công dân, quy trình hiệp thương của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các văn bản liên quan đến bầu cử.

Đợt 2 (Trong thời gian bầu cử, từ trước ngày bầu cử khoảng 15 ngày đến ngày diễn ra bầu cử 23/5/2021): Tập trung tuyên truyền về tiêu chuẩn đại biểu Quốc hội, tiêu chuẩn đại biểu Hội đồng nhân dân, quyền và nghĩa vụ của người ứng cử, quyền và nghĩa vụ của cử tri, quy định về trình tự bầu cử, thế thức bầu cử, tuyên truyền về không khí ngày bầu cử, diễn biến và tiến độ bầu cử ở các địa phương, dư luận trong huyện, trong tỉnh, dư luận trong nước và quốc tế...

Đợt 3 (Sau bầu cử, từ khi kết thúc bầu cử ngày 23/5/2021 đến ngày 15/6/2021): Tập trung thông tin, tuyên truyền về kết quả và thành công của cuộc bầu cử.

* Phát động đợt thi đua đặc biệt chào mừng cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026.

Đảng ủy các xã, thị trấn lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng kế hoạch hưởng ứng phong trào thi đua của tỉnh, huyện và tổ chức đợt thi đua thiết thực, hiệu quả trong toàn đảng bộ. Nội dung thi đua phải có các tiêu chí cụ thể để đánh giá xếp loại sát với mức độ hoàn thành công tác thực hiện bầu cử của các cơ quan, đơn vị, địa phương, bảo đảm khen thưởng đúng đối tượng.

* Về tổ chức Hội nghị triển khai công tác bầu cử

Ủy ban bầu cử cấp xã chỉ đạo tham mưu tổ chức Hội nghị triển khai công tác bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 ngay sau khi có văn bản quy định, chỉ đạo hướng dẫn của Trung ương, Hội đồng bầu cử Quốc gia và của tỉnh, huyện.

* Định hướng về công tác nhân sự giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội khóa XV và người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, nhiệm kỳ 2021 - 2026 trên địa bàn huyện

- Yêu cầu chung

Cấp ủy đảng các cấp thực hiện tốt công tác nhân sự, bảo đảm phát huy dân chủ, và sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Đảng trong công tác cán bộ; gắn kết quả nhân sự của đại hội đảng các cấp nhiệm kỳ 2020-2025 và quy hoạch cán bộ với công tác chuẩn bị nhân sự bầu cử để giới thiệu những người tiêu biểu, đủ điều kiện tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật, có năng lực, điều kiện thực hiện nhiệm vụ đại biểu, nhất là các chức danh lãnh đạo Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân huyện và cấp xã. Kiên quyết không giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp những người không xứng đáng, không đủ tiêu chuẩn, nhất là những người sa sút về phẩm chất đạo đức, tham nhũng, chạy chức, chạy quyền, xu nịnh, kiêu ngạo, quan liêu, gây mất đoàn kết, ảnh hưởng xấu đến uy tín của Đảng, Nhà nước.

Các cấp ủy quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sát sao bảo đảm bầu đủ số lượng đại biếu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp và là những người thực sự tiêu biểu, xứng đáng đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân. Đặc biệt coi trọng chất lượng đại biểu, lấy tiêu chuẩn, chất lượng đại biểu làm trọng tâm, không vì cơ cấu mà hạ thấp tiêu chuẩn; đồng thời bảo đảm cơ cấu hợp lý về số đại biểu là người đang công tác ở cơ quan Đảng, Nhà nước, lực lượng vũ trang, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; giảm hợp lý số đại biểu công tác tại các cơ quan hành chính để tăng số lượng đại biểu chuyên trách; phấn đấu tỷ lệ người ứng cử là nữ, người dân tộc thiểu số cao hơn nhiệm kỳ trước và bảo đảm theo quy định của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân; có tỷ lệ hợp lý đại biểu ngoài Đảng, đại biểu tái cử, đại biểu trẻ tuổi, đại biểu là các nhà khoa học, tri thức, văn nghệ sỹ, đại biểu xuất thân từ công nhân, nông dân, đại diện các lĩnh vực sản xuất kinh doanh trên địa bàn.

Việc lựa chọn, giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội, ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp phải đảm bảo theo đúng quy trình, quy định của pháp luật và hướng dẫn của Trung ương, của Tỉnh. Các cấp ủy phải tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và chịu trách nhiệm về kết quả việc tố chức hiệp thương giới thiệu người ra ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong công tác bầu cử, bảo đảm các điều kiện thuận lợi để mọi công dân thực hiện đầy đủ quyền ứng cử, bầu cử theo quy định của pháp luật.

* Về tiêu chuẩn người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân.

Người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp phải bảo đảm các tiêu chuẩn quy định tại Luật Tổ chức Quốc hội và Luật Tổ chức chính quyền địa phương. Người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp đang công tác tại các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị phải là những người có tiêu chuẩn, phẩm chất đạo đức của cán bộ được quy định trong Nghị quyết số 26-NQ/TW Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII.

* Đối với người ứng cử đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách, thực hiện theo hướng dẫn của Tỉnh.

* Đối với người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân chuyên trách

- Ở cấp tỉnh: thực hiện theo hướng dẫn của tỉnh.

- Ở cấp huyện: Người ứng cử đại biểu phải có trình độ đại học trở lên, có năng lực xây dựng chính sách và khả năng tổ chức các hoạt động giám sát, có chuyên môn và kinh nghiệm thực tiễn phù hợp với vị trí dự kiến phân công. Có tư tưởng lập trường chính trị vững vàng, có ý thức trách nhiệm trong hoạt động của Hội đồng nhân dân.

Người ứng cử Chủ tịch Hội đồng nhân dân huyện hoạt động chuyên trách phải là ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy trở lên và được quy hoạch vào chức danh Chủ tịch Hội đồng nhân dân huyện; người ứng cử Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân huyện chuyên trách phải là ủy viên Ban Chấp hành đảng bộ huyện, giữ chức vụ từ Trưởng Phòng hoặc tương đương ở cấp huyện trở lên và được quy hoạch Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Phó Chủ tịch ủy ban nhân dân huyện trở lên; người ứng cử Trưởng ban của Hội đồng nhân dân chuyên trách phải giữ chức vụ từ Phó trưởng phòng hoặc tương đương ở cấp huyện trở lên; người ứng cử Phó trưởng ban của Hội đồng nhân dân chuyên trách phải có thời gian giữ ngạch chuyên viên từ 5 năm trở lên và được quy hoạch vào chức vụ Phó Trưởng phòng hoặc tương đương ở cấp huyện trở lên.

- Ở cấp xã: Người ứng cử Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân chuyên trách phải là cấp ủy viên, nơi nào có điều kiện thì bố trí ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy cấp xã.

* Về độ tuổi của người ứng cử

- Thực hiện tính tuổi theo Chỉ thị số 35-CT/TW, ngày 30/5/2019 của Bộ Chính trị; Hướng dẫn số 26-HD/BTCTW ngày 18/10/2019 của Ban Tổ chức Trung ương; Thông báo kết luận số 174-TB/TW ngày 08/6/2020 của Bộ Chính trị.

- Thời điểm tính độ tuổi tham gia chức danh lãnh đạo Hội đồng nhân dân, đại biểu chuyên trách là tháng 5/2021.

- Người lần đầu ứng cử phải đủ tuổi tham gia hai khóa Hội đồng nhân dân trở lên hoặc ít nhất trọn một khóa. Đại biểu Hội đồng nhân dân chuyên trách phải còn đủ tuổi công tác ít nhất là 1/2 nhiệm kỳ, nam sinh từ tháng 11/1963 và nữ sinh từ tháng 11/1968 trở lại đây.

* Về số lượng đại biểu Quốc hội, số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân và cơ cấu thành phần, phân bổ số lượng người được giới thiệu ứng cử

- Về số lượng đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân tỉnh do cấp trên phân bổ.

- Về số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện, cấp xã: Thực hiện theo quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương và hướng dẫn của cấp trên.

- Về phân bổ số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách: Thực hiện theo quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương, cụ thể ở mỗi cấp như sau:

+ Ở cấp tỉnh: Do tỉnh phân bổ

+ Ở cấp huyện: Thường trực Hội đồng nhân dân cấp huyện có tối đa là 02 đại biểu hoạt động chuyên trách; mỗi Ban Hội đồng nhân dân có tối đa 02 đại biểu hoạt động chuyên trách.

+ Ở cấp xã: Bố trí Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách

* Định hướng chung về cơ cấu đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp

- Bảo đảm tỷ lệ hợp lý người được giới thiệu ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân là người dân tộc thiếu số, phù hợp với đặc điểm, cơ cấu dân số của từng địa phương và phấn đấu số đại biểu Hội đồng nhân dân được bầu là người dân tộc thiểu số không thấp hơn số đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2016-2021 là người dân tộc thiểu số ở đơn vị hành chính đó. Quan tâm đến những dân tộc thiểu số trong nhiều khóa Hội đồng nhân dân chưa có người tham gia vào hoạt động cơ quan dân cử.

- Đại biểu là nữ bảo đảm ít nhất 35% người trong danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân; phấn đấu tỷ lệ trúng cử khoảng 30%.

- Phấn đấu đạt tỷ lệ không dưới 10% người được giới thiệu ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân là người ngoài Đảng.

- Phấn đấu đạt tỷ lệ không dưới 15% người được giới thiệu ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân là người dưới 40 tuổi.

- Phấn đấu có ít nhất 30% đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ trước tái cử đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2021-2016

 

10 THÀNH TỰU, SỰ KIỆN NỔI BẬT NĂM 2020

1. Tổ chức thành công Đại hội Đảng các cấp, Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện Đồng Văn lần thứ XXI, nhiệm kỳ 2020-2025. Kết quả đã bầu ra 415 cấp ủy viên cơ sở, 41 cấp ủy viên cấp huyện với tỷ lệ số phiếu bầu từ 95% trở lên.

2. Tổ chức thành công Đại hội thi đua yêu nước lần thứ V, giai đoạn 2020-2025, tại Đại hội đã có 246 đại biểu tiêu biểu xuất sắc đại diện cho các gương điển hình thi đua trong lao động học tập và sáng tạo trên các lĩnh vực xây dựng Đảng, hệ thống chính trị, cải cách thủ tục hành chính, phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng, an ninh, góp phần cho huyện Đồng Văn hoàn thành các mục tiêu, chỉ tiêu nghị quyết Đại hội Đảng các cấp nhiệm kỳ 2015-2020 đã đề ra.

3. Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới tiếp tục được quan tâm chỉ đạo vào cuộc của cả hệ thống chính trị, đặc biệt sự tham gia ủng hộ nhiệt tình của nhân dân, trong năm nhân dân hiến 42.692 m2 đất, đóng góp 19.766 ngày công và đóng góp kinh phí trên 2,9 tỷ đồng làm các tuyến đường bê tông nông thôn. Trong năm đã có 6 thôn đạt tiêu chí nông thôn mới; xã Lũng Cú đạt chuẩn tiêu chí và sẽ tổ chức lễ công nhận vào đầu năm 2021.

4. Tập trung chỉ đạo triển khai đồng bộ các giải pháp phát triển kinh tế, vừa phòng chống dịch bệnh ở người, gia súc và cây trồng. An ninh lương thực được đảm bảo. Giá trị sản xuất nông lâm nghiệp tiếp tục tăng trưởng mạnh, đạt 650,7 tỷ đồng đạt 100% chỉ tiêu nghị quyết, tăng 25 tỷ đồng so với năm 2019; giá trị sản phẩm thu hoạch/ha diện tích canh tác cây đạt 37,5 triệu đồng/ha; Sản lượng lương thực bình quân đầu người đạt 358 kg, đạt 100% nghị quyết. Tổng giá trị sản xuất công nghiệp đạt trên 153 tỷ đồng, đạt 105,5% nghị quyết. Thương mại - Du lịch - Dịch vụ, tổng mức bán lẻ hàng hóa đạt trên 530 tỷ đồng, đạt 100% nghị quyết.

5. Triển khai quyết liệt các giải pháp, biện pháp cấp bách phòng chống dịch bệnh Covid-19 theo tình thần chỉ đạo của Trung ương, của Tỉnh, kiểm soát tốt dịch bệnh không để lay lan ra cộng đồng, chủ động bố trí nguồn kinh phí và kêu gọi xã hội hóa vật chất, kinh phí cho công tác phòng, chống dịch bệnh, đồng thời phối hợp hỗ trợ các lực lượng chức năng nước bạn về trang thiệt bị y tế phòng dịch và kiểm soát người qua lại biên giới để ngăn chặn dịch bệnh.

6. Hoàn thành việc xây dựng và được công nhận Làng văn hóa du lịch cộng đồng đối với Làng văn hóa Thôn Lô Lô Chải xã Lũng Cú, Thôn Má Lé xã Má Lé, tạo thêm sản phẩm du lịch và là điểm kết nối giới thiệu bản sắc văn hóa các dân tộc huyện Đồng Văn tới du khách trong nước và quốc tế.

7. Phối hợp tổ chức các hoạt động bên lề trong chuỗi sự kiện Lễ hội hoa tam giác mạch lần thứ VI và Kỷ niệm 10 năm Cao nguyên đá Đồng Văn gia nhập mạng lưới Công viên địa chất toàn cầu UNESCO. Góp phần tích cực vào hoạt động kích cầu du lịch nội địa, thúc đẩy du lịch của địa phương, quảng bá những giá trị di sản địa chất độc đáo và nét văn hóa đặc sắc của của đồng bào các dân tộc gắn với Công viên Địa chất toàn cầu UNESCO Cao nguyên đá Đồng Văn.

8. Công tác hỗ trợ xây dựng nhà ở cho người có công, cựu chiến binh nghèo, hộ nghèo có khó khăn về nhà ở trên địa bàn huyện đảm bảo hoàn thành chỉ tiêu. Đã hoàn thành 170/170 nhà theo chi tiêu kế hoạch năm 2020. Giải quyết việc làm mới cho 3.205 lao động, đạt 140,9% nghị quyết

9. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội đảm bảo, quốc phòng được giữ vững không xảy ra các điểm nóng, các vụ việc phức tạp. Lực lượng Công an chính quy đã phát huy vai trò ở cơ sở, phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị của địa phương. Công tác thông tin đối ngoại và thực hiện đối ngoại, đối đẳng tiếp tục được duy trì ổn định.

10. Thu ngân sách trên địa bàn đạt 44 tỷ/43,7 tỷ đạt 100% dự toán tỉnh giao.

                                                    Nguồn: Huyện ủy Đồng Văn

 

 THÔNG TIN TRONG HUYỆN

* Chiều 14/01/2021, Hội đồng nhân dân huyện Đồng Văn tổ chức Hội nghị tổng kết hoạt động Hội đồng nhân dân 2 cấp, nhiệm kỳ 2016-2021. Dự hội nghị có đồng chí Hoàng Văn Vịnh, Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh - Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh; Đồng chí Hoàng Văn Thịnh, Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh - Bí thư Huyện ủy; các đồng chí lãnh đạo Thường trực Huyện ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân huyện; thủ trưởng các cơ quan ban, ngành huyện; các đại biểu Hội đồng nhân dân 2 cấp huyện, xã, nhiệm kỳ 2016-2021.

Qua 1 nhiệm kỳ thực hiện nhiệm vụ cho thấy chất lượng, hiệu quả hoạt động của Thường trực, các ban, đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện ngày càng được nâng lên. Đại biểu Hội đồng nhân dân huyện đã thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình tại kỳ họp. Hoạt động tiếp xúc cử tri ngày càng được đổi mới về phương thức, nội dung, đối tượng, địa điểm và cách thức giải đáp; tiếp thu, phân loại ý kiến cử tri phản ánh đến Ủy ban nhân dân, các ngành... được xem xét giải quyết kịp thời. Hoạt động giám sát ngày càng đi vào chiều sâu, có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào những nội dung nổi cộm mà cử tri và nhân dân quan tâm. Hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã có nhiều chuyển biến, đặc biệt là sau khi triển khai thực hiện Đề án “Nâng cao chất lượng, hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã” nhiệm kỳ 2016-2021. Qua đó đã khẳng định Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực ở địa phương, quyết định những vấn đề quan trọng, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện.

Tại hội nghị, các đại biểu đã tham luận về nhiều vấn đề như: Công tác phối hợp giữa Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân; công tác tiếp xúc cử tri; giải pháp nâng cao hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân... Nhiều cá nhân, tập thể được tặng Giấy khen của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện đã có thành tích xuất sắc, tiêu biểu trong hoạt động Hội đồng nhân dân 2 cấp, nhiệm kỳ 2016-2021.

Đức Chung

 

* Ngày 05/01/2021, Đảng ủy Quân sự huyện tổ chức Hội nghị ra nghị quyết lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ quân sự - quốc phòng và công tác xây dựng Đảng bộ năm 2021. Dự và chỉ đạo hội nghị có đồng chí Hoàng Văn Thịnh, Tỉnh ủy viên, Bí thư Huyện ủy - Bí thư Đảng ủy Quân sự huyện; đồng chí Phí Đình Bảo, Uỷ viên Ban Chấp hành Đảng bộ quân sự tỉnh - Phó Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy quân sự tỉnh.

Thực hiện Nghị quyết năm 2020, Đảng ủy Quân sự huyện đã lãnh đạo thực hiện toàn diện các nhiệm vụ quân sự, quốc phòng địa phương, trong đó có nhiều nhiệm vụ hoàn thành tốt, nổi bật là công tác tham mưu cho Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác quản lý Nhà nước về quốc phòng trên địa bàn; hoàn thành tốt nhiệm vụ tuyển quân năm 2020; chất lượng công tác huấn luyện, hội thi, hội thao được nâng lên; tích cực xây dựng đảng bộ trong sạch vững mạnh, đơn vị vững mạnh toàn diện; thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội… Trong năm 2020 Đảng uỷ đã lãnh đạo, chỉ đạo đơn vị duy trì nghiêm chế độ trực sẵn sàng chiến đấu, đảm bảo an ninh, an toàn các dịp lễ tết, sự kiện chính trị lớn của đất nước và địa phương. Thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; tích cực, chủ động nắm bắt tư tưởng, dư luận xã hội, giải quyết kịp thời các vấn đề về tư tưởng, tạo sự đoàn kết, thống nhất cao. Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền, thi đua khen thưởng cũng được quan tâm, chú trọng, qua đó góp phần giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng trong lực lượng vũ trang trên địa bàn…Phối hợp chỉ đạo lực lượng vũ trang địa phương thực hiện nghiêm chế độ sẵn sàng chiến đấu, dự báo đúng tình hình tham mưu giải quyết tốt các tình huống, giữ vững ổn định an ninh trật tự, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn. Phối hợp với lực lượng Công an, Biên phòng, các cấp, các ngành làm tốt công tác tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ năm 2020, đảm bảo dân chủ, công khai, công bằng, đúng luật, hoàn thành 100% chỉ tiêu giao.

Phát huy những thuận lợi, khắc phục những khó khăn, Nghị quyết của Đảng ủy quân sự huyện năm 2021 đặt ra mục tiêu phấn đấu: Tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng ủy quân sự tỉnh, của Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện; Tăng cường lãnh đạo công tác tư tưởng, xây dựng chính quy, chấp hành kỷ luật Quân đội, pháp luật Nhà nước; Đổi mới phương pháp, tác phong công tác, đề cao trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, xây dựng cho cán bộ, sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, lực lượng thường trực và cán bộ, chiến sỹ lực lượng vũ trang huyện có bản lĩnh chính trị vững vàng, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Phát biểu kết luận hội nghị đồng chí Bí thư Huyện ủy, Bí thư Đảng ủy quân sự huyện Hoàng Văn Thịnh nhấn mạnh, thời gian tới Đảng ủy quân sự huyện tiếp tục tham mưu với Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác quản lý Nhà nước về quốc phòng trên địa bàn; tăng cường các biện pháp xây dựng nề nếp chính quy, duy trì chấp hành kỷ luật, chế độ trực sẵn sàng chiến đấu trong lực lượng vũ trang huyện. Đồng chí Bí thư Đảng ủy quân sự huyện cũng yêu cầu Bí thư Đảng ủy các xã, thị trấn, thủ trưởng các cơ quan đơn vị phải nắm rõ các văn bản chỉ đạo của các cấp về công tác quân sự, quốc phòng địa phương. Quan tâm công tác phòng chống thiên tai, đẩy mạnh phong trào thi đua quyết thắng gắn với phong trào thi đua yêu nước của địa phương. Tích cực tham mưu và tham gia xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh từ huyện tới cơ sở. Nhiệm vụ trước mắt là thực hiện tốt công tác đảm bảo an ninh trật tự trên địa bàn để mọi người dân được đón tết vui xuân năm 2021 an toàn; Hoàn thành 100% chỉ tiêu giao quân năm 2021.

Thiện Ngay

 

ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN

TRỌNG TÂM THÁNG 01/2021

1. Tiếp tục tuyên truyền cao điểm về Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; tăng cường đấu tranh phản bác những luận điệu chống phá của các thế lực thù địch trước thềm Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.

2. Tập trung tuyên truyền việc học tập, quán triệt, tuyên truyền thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2020-2025 (theo Kế hoạch số 14-KH/HU, ngày 30/11/2020 của Ban Thường vụ Huyện ủy về việc học tập, quán triệt, tuyên truyền và triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2020-2025); tuyên truyền, quán triệt Nghị quyết số 02-NQ/HU, ngày 17/2/2020 của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Đồng Văn, khóa XXI về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu năm 2021.

3. Đẩy mạnh tuyên truyền về gương điển hình tiên tiến, cách làm sáng tạo của tập thể, cá nhân trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” gắn với việc học tập và làm theo 8 lời Bác Hồ căn dặn Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Hà Giang; tuyên truyền kết quả 5 năm thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TU, ngày 10/11/2015 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về “Tăng cường giám sát việc thực hiện “Nói đi đôi với làm’’ đối với cấp ủy viên, người đứng đầu các cấp, các ngành và cơ sở trong tỉnh”.

4. Tuyên truyền kết quả nổi bật trong thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh năm 2020 của đất nước, của tỉnh và 10 thành tựu, sự kiện nổi bật năm 2020 của huyện Đồng Văn. Nghiêm túc triển khai thực hiện Công văn số 304-CV/HU, ngày 11/01/2021 của Ban Thường Vụ Huyện ủy “Về việc tăng cường chỉ đạo một số nội dung chuẩn bị công tác tổ chức Tết Tân Sửu năm 2021”.

5. Tuyên truyền về thuế và chính sách, pháp luật thuế; việc thực hiện các chương trình, chính sách tín dụng của Chính phủ và của tỉnh; các giải pháp cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lại, giữ nguyên nhóm nợ, cho vay đối với khách hàng gặp khó khăn do dịch bệnh Covid -19 gây ra; triển khai hỗ trợ khách hàng với các gói tín dụng. Thông tin cơ chế, chính sách của tỉnh, của huyện, hoạt động thu hút đầu tư sản xuất, kinh doanh trên địa bàn huyện theo quy định của pháp luật; tăng cường tuyên truyền, tư vấn giới thiệu việc làm và kết nối cung - cầu lao động, kết nối thị trường để đưa lao động đi làm theo quy định. Tuyên truyền bảo vệ thương hiệu, quảng bá các sản phẩm địa phương; tuyên truyền phòng, chống buôn lậu, hàng nhái, hàng giả, hàng kém chất lượng.

6. Tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền có chất lượng, hiệu quả việc vận động hỗ trợ xây dựng nhà ở cho người có công, cựu chiến binh nghèo, hộ nghèo có khó khăn về nhà ở trên địa bàn huyện; tuyên truyền về xây dựng Nông thôn mới, trọng tâm là các giải pháp đạt và giữ các tiêu chí đã đạt được trong xây dựng Nông thôn mới.

7. Tuyên truyền công tác chủ động ứng phó với những diễn biến bất thường của thời tiết, chủ động phòng, chống đói, rét và dự trữ thức ăn cho gia súc trong mùa Đông; phòng, chống dịch bệnh trên vật nuôi, cây trồng; tuyên truyền công tác đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm và phòng chống ngộ độc thực phẩm; bảo vệ môi trường…

8. Kịp thời thông tin tuyên truyền diễn biến của dịch Covid-19 trên thế giới và trong nước; nâng cao nhận thức của người dân trong thực hiện tốt các biện pháp phòng, chống Covid-19 theo chỉ đạo của Chính phủ, khuyến cáo của Bộ Y tế; đồng thời tuyên truyền để nhân dân nhận thức rõ, ủng hộ, đồng hành cùng Đảng, Nhà nước trong thực hiện “Mục tiêu kép” vừa sẵn sàng phòng chống dịch, vừa đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội; nêu gương tập thể, cá nhân có hành động đẹp, thực hiện nghiêm quy định của Nhà nước trong công tác phòng, chống dịch Covid-19.

9. Tập trung tuyên truyền, quảng bá hình ảnh thiên nhiên hùng vĩ, văn hóa truyền thống độc đáo của huyện, gắn với tuyên truyền quảng bá về các hoạt động xúc tiến du lịch năm 2021 và các hội, lễ hội truyền thống được tổ chức trên địa bàn huyện trước, trong và sau tết Nguyên đán năm 2021.

10. Tuyên truyền nâng cao nhận thức về ý thức trách nhiệm của toàn dân, của cán bộ, đảng viên, đặc biệt là nhân dân khu vực biên giới về công tác bảo vệ, quản lý đường biên giới, mốc giới, đảm bảo an ninh trật tự vùng biên giới, gắn với tuyên truyền về biển, đảo Việt Nam với những cơ sở, chứng cứ lịch sử và pháp lý khẳng định chủ quyền, quyền chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; tuyên truyền Nghị định số 137/2020/NĐ-CP, ngày 27/11/2020 của Chính phủ về quản lý, sử dụng pháo; tuyên truyền đảm bảo an ninh trật tự trước dịp tết Nguyên đán năm 2021...

        Tuyên truyền Kỷ niệm 91 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930-03/02/2021) và đón tết Nguyên đán Tân Sửu năm 2021; 75 năm ngày Tổng tuyển cử đầu tiên bầu cử Quốc hội Việt Nam (06/01/1946-06/01/2021); 80 năm ngày Bác Hồ về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam (28/01/1941-28/01/2021); 115 năm Ngày thành lập huyện Đồng Văn (01/01/1906-01/01/2021); 73 năm Ngày thành lập chi bộ đầu tiên ở Đồng Văn (06/01/1948-06/01/2021. 71 năm Ngày truyền thống học sinh, sinh viên (09/01/1950-09/01/2021); 48 năm ký Hiệp định Pari chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt nam (27/01/1973-27/01/2021). Ngoài những nội dung trọng tâm nêu trên đề nghị các chi, đảng bộ trực thuộc bám sát nhiệm vụ chính trị và thực tiễn địa phương, cơ quan, đơn vị để lựa chọn, bổ sung các nội dung tuyên truyền phù hợp, đảm bảo chất lượng, hiệu quả.

 

BAN TUYÊN GIÁO HUYỆN ỦY


Tin khác

Liên kết website

Thống kê truy cập