Tài Liệu

Bản tin nội bộ tháng 04 năm 2023

08/11/2023 09:13 31 lượt xem

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

 

“Trích” Bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

... Một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển. Điều đó có nghĩa là: không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; càng không “hy sinh” tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Trái lại, mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xóa đói, giảm nghèo bền vững, chăm sóc những người có công, những người có hoàn cảnh khó khăn. Đây là một yêu cầu có tính nguyên tắc để bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Chúng ta coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn; chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những thành tựu, tinh hoa văn hóa nhân loại, phấn đấu xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ ngày càng cao. Chúng ta xác định: Con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới; phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn, là tiêu chí để phát triển bền vững; xây dựng gia đình hạnh phúc, tiến bộ làm tế bào lành mạnh, vững chắc của xã hội, thực hiện bình đẳng giới là tiêu chí của tiến bộ, văn minh.

Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người, khác hẳn về chất so với các xã hội cạnh tranh để chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm. Do đó, cần và có điều kiện để xây dựng sự đồng thuận xã hội thay vì đối lập, đối kháng xã hội. Trong chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích; mọi đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Mô hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ. Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân là một nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam. Chúng ta chủ trương không ngừng phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, trên cơ sở liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Nhà nước đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức thực hiện đường lối của Đảng; có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trực tiếp và dân chủ đại diện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, tham gia quản lý xã hội. Chúng ta nhận thức rằng, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa về bản chất khác với nhà nước pháp quyền tư sản là ở chỗ: pháp quyền dưới chế độ tư bản chủ nghĩa về thực chất là công cụ bảo vệ và phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản, còn pháp quyền dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân. Thông qua thực thi pháp luật, Nhà nước bảo đảm các điều kiện để nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị, thực hiện chuyên chính với mọi hành động xâm hại lợi ích của Tổ quốc và nhân dân. Đồng thời, chúng ta xác định: Đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức mạnh và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam; không ngừng thúc đẩy sự bình đẳng và đoàn kết giữa các dân tộc, tôn giáo.

Nhận thức sâu sắc sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới và bảo đảm cho đất nước phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đặc biệt chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam; Đảng ra đời, tồn tại và phát triển là vì lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Khi Đảng cầm quyền, lãnh đạo cả dân tộc, được toàn dân thừa nhận là đội tiên phong lãnh đạo của mình và do đó Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam. Nói như vậy không có nghĩa là hạ thấp bản chất giai cấp của Đảng, mà là thể hiện sự nhận thức bản chất giai cấp của Đảng một cách sâu sắc hơn, đầy đủ hơn, vì giai cấp công nhân là giai cấp có lợi ích thống nhất với lợi ích của nhân dân lao động và toàn dân tộc. Đảng ta kiên trì lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên; thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ. Ý thức được nguy cơ đối với đảng cầm quyền là tham nhũng, quan liêu, thoái hóa..., nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường, Đảng Cộng sản Việt Nam đặt ra yêu cầu phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa cá nhân, chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, thoái hóa... trong nội bộ Đảng và trong toàn bộ hệ thống chính trị.

Công cuộc đổi mới, trong đó có việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã thực sự đem lại những thay đổi to lớn, rất tốt đẹp cho đất nước trong 35 năm qua.

Trước đổi mới (1986), Việt Nam vốn là một nước nghèo lại bị chiến tranh tàn phá rất nặng nề, để lại những hậu quả hết sức to lớn cả về người, về của và môi trường sinh thái. Cho đến nay vẫn có hàng triệu người chịu các bệnh hiểm nghèo và hàng trăm nghìn trẻ em bị dị tật bẩm sinh bởi tác động của chất độc da cam/dioxin do quân đội Mỹ sử dụng trong thời gian chiến tranh ở Việt Nam. Theo các chuyên gia, phải mất đến hơn 100 năm nữa Việt Nam mới có thể dọn sạch hết bom mìn còn sót lại sau chiến tranh. Sau chiến tranh, Mỹ và phương Tây đã áp đặt cấm vận kinh tế với Việt Nam trong suốt gần 20 năm. Tình hình khu vực và quốc tế cũng diễn biến phức tạp, gây nhiều bất lợi cho chúng ta. Lương thực, hàng hóa nhu yếu phẩm hết sức thiếu thốn, đời sống nhân dân hết sức khó khăn, khoảng 3/4 dân số sống dưới mức nghèo khổ.

Nhờ thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế bắt đầu phát triển và phát triển liên tục với tốc độ tương đối cao trong suốt 35 năm qua với mức tăng trưởng trung bình khoảng 7% mỗi năm. Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2020 đạt 342,7 tỉ đôla Mỹ (USD), trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN. Thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng 17 lần, lên mức 3.512 USD; Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008. Từ một nước bị thiếu lương thực triền miên, đến nay, Việt Nam không những đã bảo đảm được an ninh lương thực mà còn trở thành một nước xuất khẩu gạo và nhiều nông sản khác đứng hàng đầu thế giới. Công nghiệp phát triển khá nhanh, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ liên tục tăng và hiện nay chiếm khoảng 85% GDP. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng mạnh, năm 2020 đạt trên 540 tỉ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt trên 280 tỉ USD. Dự trữ ngoại hối tăng mạnh, đạt 100 tỉ USD vào năm 2020. Đầu tư nước ngoài tăng nhanh, đăng ký đạt gần 395 tỉ USD vào cuối năm 2020. Về cơ cấu nền kinh tế xét trên phương diện quan hệ sở hữu, tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam hiện nay gồm khoảng 27% từ kinh tế nhà nước, 4% từ kinh tế tập thể, 30% từ kinh tế hộ, 10% từ kinh tế tư nhân trong nước và 20% từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.

Hiện, dân số của Việt Nam là hơn 97 triệu người, gồm 54 dân tộc, trong đó hơn 60% số dân sống ở nông thôn. Phát triển kinh tế đã giúp đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội những năm 1980 và cải thiện đáng kể đời sống của nhân dân. Tỷ lệ hộ nghèo trung bình mỗi năm giảm khoảng 1,5%; giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 5,8% năm 2016 theo chuẩn nghèo của Chính phủ và dưới 3% năm 2020 theo chuẩn nghèo đa chiều (tiêu chí cao hơn trước). Đến nay, hơn 60% số xã đạt chuẩn nông thôn mới; hầu hết các xã nông thôn đều có đường ôtô đến trung tâm, có điện lưới quốc gia, trường tiểu học và trung học cơ sở, trạm y tế và điện thoại. Trong khi chưa có điều kiện để bảo đảm giáo dục miễn phí cho mọi người ở tất cả các cấp, Việt Nam tập trung hoàn thành xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000 và phổ cập giáo dục trung học cơ sở năm 2010; số sinh viên đại học, cao đẳng tăng gần 17 lần trong 35 năm qua. Hiện nay, Việt Nam có 95% người lớn biết đọc, biết viết. Trong khi chưa thực hiện được việc bảo đảm cung cấp dịch vụ y tế miễn phí cho toàn dân, Việt Nam tập trung vào việc tăng cường y tế phòng ngừa, phòng, chống dịch bệnh, hỗ trợ các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn. Nhiều dịch bệnh vốn phổ biến trước đây đã được khống chế thành công. Người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi và người cao tuổi được cấp bảo hiểm y tế miễn phí. Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em và tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh giảm gần ba lần. Tuổi thọ trung bình của dân cư tăng từ 62 tuổi năm 1990 lên 73,7 tuổi năm 2020. Cũng nhờ kinh tế có bước phát triển nên chúng ta đã có điều kiện để chăm sóc tốt hơn những người có công, phụng dưỡng Mẹ Việt Nam Anh hùng, chăm lo cho phần mộ của các liệt sĩ đã hy sinh cho Tổ quốc. Đời sống văn hóa cũng được cải thiện đáng kể; sinh hoạt văn hóa phát triển phong phú, đa dạng. Hiện, Việt Nam có khoảng 70% dân số sử dụng internet, là một trong những nước có tốc độ phát triển công nghệ tin học cao nhất thế giới. Liên hợp quốc đã công nhận Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong việc hiện thực hóa các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ. Năm 2019, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đạt mức 0,704, thuộc nhóm nước có HDI cao của thế giới, nhất là so với các nước có cùng trình độ phát triển.

Như vậy, có thể nói, việc thực hiện đường lối đổi mới đã đem lại những chuyển biến rõ rệt, hết sức sâu sắc và tích cực ở Việt Nam: kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất được tăng cường; nghèo đói giảm nhanh, liên tục; đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã hội được giải quyết; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm; đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng được mở rộng; thế và lực của quốc gia được tăng cường; niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố. Tổng kết 20 năm đổi mới, Đại hội Đảng lần thứ X (năm 2006) đã nhận định, sự nghiệp đổi mới đã giành được “những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử”. Trên thực tế, xét trên nhiều phương diện, người dân Việt Nam ngày nay đang có các điều kiện sống tốt hơn so với bất cứ thời kỳ nào trước đây. Đó là một trong những lý do giải thích vì sao sự nghiệp đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo được toàn dân Việt Nam đồng tình, hưởng ứng và tích cực phấn đấu thực hiện. Những thành tựu đổi mới tại Việt Nam đã chứng minh rằng, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa không những có hiệu quả tích cực về kinh tế mà còn giải quyết được các vấn đề xã hội tốt hơn nhiều so với các nước tư bản chủ nghĩa có cùng mức phát triển kinh tế. Những kết quả, thành tích đặc biệt đạt được của Việt Nam trong bối cảnh đại dịch Covid-19 và suy thoái kinh tế toàn cầu bắt đầu từ đầu năm 2020 được nhân dân và bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Mới đây, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng một lần nữa lại khẳng định và nhấn mạnh: “Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa. Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới. Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh chính trị của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng, lý luận dẫn dắt dân tộc ta vững vàng tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; là nền tảng để Đảng ta hoàn thiện đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới”

Bên cạnh những thành tựu, mặt tích cực là cơ bản, chúng ta cũng còn không ít khuyết điểm, hạn chế và đang phải đối mặt với những thách thức mới trong quá trình phát triển đất nước.

Về kinh tế, chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh còn thấp, thiếu  bền  vững;  kết  cấu  hạ  tầng  thiếu  đồng  bộ;  hiệu  quả  và năng lực của nhiều doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp nhà nước còn hạn chế; môi trường bị ô nhiễm tại nhiều nơi; công tác quản lý, điều tiết thị trường còn nhiều bất cập. Trong khi đó, sự cạnh tranh đang diễn ra ngày càng quyết liệt trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.

Về xã hội, khoảng cách giàu nghèo gia tăng; chất lượng giáo dục, chăm sóc y tế và nhiều dịch vụ công ích khác còn không ít hạn chế; văn hóa, đạo đức xã hội có mặt xuống cấp; tội phạm và các tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp. Đặc biệt, tình trạng tham nhũng, lãng phí, suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống vẫn diễn ra trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Trong khi đó, các thế lực xấu, thù địch lại luôn tìm mọi thủ đoạn để can thiệp, chống phá, gây mất ổn định, thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” nhằm xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Đảng ta nhận thức rằng, hiện nay Việt Nam đang trong quá trình xây dựng, quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong thời kỳ quá độ, các nhân tố xã hội chủ nghĩa được hình thành, xác lập và phát triển đan xen, cạnh tranh với các nhân tố phi xã hội chủ nghĩa, gồm cả các nhân tố tư bản chủ nghĩa trên một số lĩnh vực. Sự đan xen, cạnh tranh này càng phức tạp và quyết liệt trong điều kiện cơ chế thị trường và mở cửa, hội nhập quốc tế. Bên cạnh các mặt thành tựu, tích cực, sẽ luôn có những mặt tiêu cực, thách thức cần được xem xét một cách tỉnh táo và xử lý một cách kịp thời, hiệu quả. Đó là cuộc đấu tranh rất gay go, gian khổ, đòi hỏi phải có tầm nhìn mới, bản lĩnh mới và sức sáng tạo mới. Đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình không ngừng củng cố, tăng cường, phát huy các nhân tố xã hội chủ nghĩa để các nhân tố đó ngày càng chi phối, áp đảo và chiến thắng. Thành công hay thất bại là phụ thuộc trước hết vào sự đúng đắn của đường lối, bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.

Hiện nay, chúng ta đang tiếp tục đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng chú trọng hơn chất lượng và tăng tính bền vững với các khâu đột phá là: hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phát triển nguồn nhân lực, trước hết là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế và xã hội. Về xã hội, chúng ta tiếp tục đẩy mạnh công tác giảm nghèo bền vững, nâng cao chất lượng y tế, giáo dục và các dịch vụ công ích  khác,  nâng  cao  hơn  nữa  đời  sống  văn  hóa  cho  nhân  dân. Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đang ra sức học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh với quyết tâm ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, thực hiện tốt hơn nữa các nguyên tắc tổ chức xây dựng Đảng, nhằm làm cho tổ chức đảng và bộ máy nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh, giữ vững bản chất cách mạng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.

Cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy, xây dựng chủ nghĩa xã hội là kiến tạo một kiểu xã hội mới về chất, hoàn toàn không hề đơn giản, dễ dàng. Đây là cả một sự nghiệp sáng tạo vĩ đại, đầy thử thách, khó khăn, một sự nghiệp tự giác, liên tục, hướng đích lâu dài, không thể nóng vội. Vì vậy, bên cạnh việc xác định chủ trương, đường lối đúng, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, phải phát huy mạnh mẽ vai trò sáng tạo, sự ủng hộ và tham gia tích cực của nhân dân. Nhân dân tiếp nhận, ủng hộ và nhiệt tình tham gia thực hiện đường lối của Đảng vì thấy đường lối đó đáp ứng đúng yêu cầu, nguyện vọng của mình. Sức mạnh nhân dân là cội nguồn sâu xa của thắng lợi, của phát triển.

Mặt khác, Đảng lãnh đạo và cầm quyền, trong khi xác định phương hướng chính trị và đề ra quyết sách, không thể chỉ xuất phát từ thực tiễn của đất nước và dân tộc mình, mà còn phải nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm từ thực tiễn của thế giới và thời đại. Trong thế giới toàn cầu hóa như hiện nay, sự phát triển của mỗi quốc gia - dân tộc không thể biệt lập, đứng bên ngoài những tác động của thế giới và thời đại, của thời cuộc và cục diện của nó. Chính vì vậy, chúng ta phải chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi. Và  điều  hết  sức  quan  trọng  là phải luôn luôn kiên định và vững vàng trên nền tảng tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin - học thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân và quần chúng lao động. Tính  khoa  học  và  cách mạng triệt để của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là  những  giá  trị  bền  vững,  đã  và  đang  được  những  người cách mạng theo đuổi và thực hiện. Nó sẽ còn tiếp tục phát triển và có sức sống trong thực tiễn cách mạng cũng như trong thực tiễn phát triển của khoa học. Chúng ta cần tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những hành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống.

HƯỚNG TỚI KỶ NIỆM 48 NGÀY GIẢI PHÓNG MIỀN NAM THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC 30/4/1975 - 30/4/2023 VÀ NGÀY QUỐC TẾ LAO ĐỘNG 01/5

Cách đây 48 năm cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã giành thắng lợi hoàn toàn. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã đi vào lịch sử dân tộc như một mốc son chói lọi đưa đất nước ta bước vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta từ đây tập trung sức lực và trí tuệ hàn gắn vết thương chiến tranh xây dựng cuộc sống mới; xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Chiến thắng ngày 30/4/1975 là thành quả vĩ đại trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội do Đảng ta và chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo; là trang sử hào hùng, chói lọi trên con đường dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm lịch sử của dân tộc. Quân và dân ta đã đánh thắng kẻ thù lớn mạnh và hung hãn nhất của loài người tiến bộ; kết thúc oanh liệt cuộc chiến đấu 30 năm giành độc lập tự do, thống nhất cho Tổ quốc; chấm dứt ách thống trị hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân cũ và mới trên đất nước ta; là thắng lợi tiêu biểu của lực lượng cách mạng thế giới, góp phần thúc đẩy cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì mục tiêu độc lập dân tộc, hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội; cổ vũ động viên các dân tộc đang tiến hành công cuộc giải phóng dân tộc, chống chủ nghĩa thực dân kiểu mới trên toàn thế giới.

Vào cuối năm 1974 - đầu năm 1975, nhận thấy tình hình so sánh lực lượng ở Miền Nam có sự thay đổi mau lẹ có lợi cho cách mạng, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã đề ra kế hoạch giải phóng hoàn toàn Miền Nam trong hai năm 1975 và 1976. Bộ Chính trị nhấn mạnh “cả năm 1975 là thời cơ” và chỉ rõ “nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng hoàn toàn Miền Nam trong năm 1975”. Bộ Chính trị cũng nhấn mạnh cần tranh thủ thời cơ đánh thắng nhanh để đỡ thiệt hại về người và của cho nhân dân, giữ gìn tốt cơ sở kinh tế, công trình văn hóa, giảm bớt sự tàn phá của chiến tranh. Sau chiến thắng của quân ta ở chiến dịch Tây Nguyên và chiến dịch Huế - Đà Nẵng, Bộ Chính trị đã nhận định: “Thời cơ chiến lược đã đến, ta có điều kiện hoàn thành sớm quyết tâm giải phóng Miền Nam” và đã đưa ra quyết định: “Phải tập trung nhanh nhất lực lượng, binh khí kỹ thuật và vật chất giải phóng Miền Nam trước mùa mưa”, đồng thời chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định được Bộ Chính trị quyết định mang tên “chiến dịch Hồ Chí Minh”. Trước khi tấn công giải phóng Sài Gòn, quân ta đã tiến công Xuân Lộc và Phan Rang, đây là những căn cứ phòng thủ trọng yếu của địch để bảo vệ Sài Gòn từ phía đông.

Vào lúc 17 giờ ngày 26 tháng 4, quân ta đã nổ súng mở đầu chiến dịch, năm cánh quân của ta đã vượt qua tuyến phòng thủ của địch để tiến vào trung tâm Sài Gòn, đánh chiếm các cơ quan đầu não của chúng. 10 giờ 45 phút ngày 30/4, xe tăng và bộ binh của ta tiến vào Dinh Độc Lập, bắt toàn bộ Nội các của Sài Gòn, Dương Văn Minh vừa lên chức tổng thống ngày 28/4 đã phải tuyên bố đầu hàng quân ta không điều kiện. Đến 11 giờ 30 phút cùng ngày, lá cờ cách mạng tung bay trên Dinh Độc Lập, báo hiệu sự toàn thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

Đại thắng mùa xuân 1975 đã chứng minh trí tuệ và tài thao lược của Đảng ta trong lãnh đạo và chỉ đạo chiến tranh cách mạng, cũng như chứng minh tinh thần quật khởi của người dân Việt Nam trong đấu tranh chống ngoại xâm. Chiến thắng đã chấm dứt ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc và chế độ phong kiến ở nước ta, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thống nhất đất nước, đồng thời mở ra một kỷ nguyên mới của dân tộc, cả nước cùng tiến lên Chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi này đã đi vào lịch sử nước ta và của thế giới, như một trang sử chói lọi ở những năm 70 của thế kỷ XX, mang tầm quốc tế, tầm thời đại sâu sắc.

Ngày nay, trong công cuộc đổi mới của đất nước, chúng ta mãi tự hào và biết ơn sự hy sinh to lớn của các anh hùng, các thế hệ cha ông ta đã chiến đấu anh dũng vì độc lập tự do và thống nhất Tổ quốc. Chúng ta càng tự hào, tin tưởng vào sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam, vào tinh thần quật cường bất khuất và trí thông minh, sáng tạo của dân tộc ta, của quân đội ta. Mỗi người dân Việt Nam nguyện tiếp tục phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tinh thần tự lực, tự cường, tinh thần đại đoàn kết toàn dân, quyết tâm vươn lên hoàn thành tốt các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh theo chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội của Đảng đề ra.

Ngày Quốc tế Lao động hay ngày mùng 1 tháng 5 là ngày lễ kỷ niệm và ngày hành động của phong trào công nhân quốc tế và của người lao động.

Năm 1886, tại thành phố công nghiệp lớn Chicago, Đại hội Liên đoàn Lao động Mỹ thông qua nghị quyết nêu rõ: "...Từ ngày 01/5/1886, ngày lao động của tất cả các công nhân sẽ là 8 giờ". Sở dĩ ngày 1/5 được chọn bởi đây là ngày bắt đầu một năm kế toán tại hầu hết các nhà máy, xí nghiệp ở Mỹ. Vào ngày này, hợp đồng mới giữa thợ và chủ sẽ được ký. Giới chủ tư bản có thể biết trước quyết định của công nhân mà không thể kiếm cớ chối từ.

Ngày 1/5/1886, do yêu cầu của công nhân không được đáp ứng một cách đầy đủ, giới công nhân trên toàn nước Mỹ đã tham gia bãi công nhằm gây áp lực buộc giới chủ thực hiện yêu sách của mình. Đầu tiên là cuộc bãi công tại thành phố Chicago. Khoảng 40 nghìn người không đến nhà máy. Họ tổ chức mit-tinh, biểu tình trên thành phố với biểu ngữ "Từ hôm nay không người thợ nào làm việc quá 8 giờ một ngày! Phải thực hiện 8 giờ làm việc, 8 giờ nghỉ ngơi, 8 giờ vui chơi!" Cuộc đấu tranh lôi cuốn ngày càng đông người tham gia.

Ngày 1/5 được xem là ngày mừng thắng lợi đã đạt được, nêu quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ mới và biểu lộ tình đoàn kết với những người lao động các nước khác. Ngày 1/5 cũng là ngày biểu dương cho lực lượng lao động, đấu tranh cho hòa bình, dân chủ, tiến bộ xã hội.

Ngày nay, Ngày Quốc tế Lao động 1/5 là ngày hội của giai cấp công nhân và nhân dân lao động nước ta, ngày đoàn kết giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức trên thế giới trong cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

THÔNG TIN TRONG HUYỆN

* Ngày 09/3/2023, Huyện ủy Đồng Văn đã tổ chức Hội nghị học tập, quán triệt và triển khai việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh năm 2023 và phát động 02 cuộc thi giải báo chí về xây dựng Đảng và cuộc thi chính luận bảo vệ nền tảng, tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Đến dự có đồng chí Hoàng Văn Thịnh, Tỉnh ủy viên, Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân huyện cùng các đồng chí lãnh đạo Ủy ban nhân dân huyện Đồng Văn.

 Hội nghị được diễn ra trong 1/2 ngày, tại Hội nghị các đại biểu đã được nghe đồng chí Triệu Long Giang, Trưởng ban Tổ chức Huyện ủy, đồng chí Dương Ngọc Đức, Trưởng ban Dân vận và đồng chí Lý Trung Kiên, Trưởng ban Tuyên giáo huyện ủy truyền đạt về các nội dung như: Quy định về việc lấy phiếu tín nhiệm đối với chức danh, chức vụ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị; chức năng nhiệm vụ, quyền hạn tổ chức bộ máy chính trị trên cơ sở trong các doanh nghiệp Nhà nước; hướng dẫn về thí điểm sinh hoạt đảng trực tuyến ở đảng bộ cơ sở, chi bộ có tính chất đặc thù hoặc trong hoàn cảnh đặc biệt; hướng dẫn của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về một số nội dung trong tuyển dụng công chức, viên chức cơ quan đảng, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị; Nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học phát triển bền vững đất nước và triển khai các mô hình dân vận khéo; Hướng dẫn học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh năm 2023 và các chuyên đề của huyện về “ Nêu gương cán bộ, đảng viên trong xóa  bỏ hủ tục lạc hậu, xây dựng nếp sống văn minh”. Các nội dung đều khẳng định rõ: Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về phong cách nêu gương và Tám lời Bác Hồ căn dặn Đảng bộ, nhân dân các dân tộc tỉnh Hà Giang nói chung và huyện Đồng Văn nói riêng là nhiệm vụ hết sức quan trọng đối với mỗi cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên và nhân dân trong giai đoạn hiện nay. Nhận thức rõ vị trí, tầm quan trọng đó, những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, các cấp ủy, tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhân dân các dân tộc trên địa bàn tỉnh đã không ngừng nêu cao tinh thần tự tu dưỡng, rèn luyện trong đạo đức, lối sống, góp phần quan trọng vào công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Phát động 02 cuộc thi về tham gia giải báo chí về xây dựng Đảng (Giải búa liềm vàng) và cuộc thi viết chính luận bảo vệ nền tảng, tư tưởng của Đảng về đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch

                                                                          Việt Anh 

* Ngày 23/3/2023, Ủy ban nhân dân huyện Đồng Văn tổ chức lễ phát động phong trào thi đua “Vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau” trên địa bàn huyện Đồng Văn năm 2023. Tham dự có các đồng chí lãnh đạo Thường trực Huyện ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân huyện, lãnh đạo các cơ quan, ban, ngành của huyện và đại diện 19 xã, thị trấn trên địa bàn toàn huyện. 

Những năm qua, các cấp Công đoàn huyện Đồng Văn đã luôn quan tâm công tác tuyên  truyền, vận động cán bộ, đoàn viên thực hiện tốt các chủ trương của Đảng, Nhà nước về công tác xóa đói giảm nghèo, các phong trào “Đền ơn, đáp nghĩa”, “Nối vòng tay nhân ái”, ủng hộ quỹ “Vì người nghèo” của tỉnh, được đông đảo đoàn, viên, người lao động tham gia, các chương trình “Nhà ở Mái ấm Công đoàn”; “Tết Sum vầy”; “Tháng Công nhân” đã trở thành các đợt cao điểm, khơi dậy tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái trong đoàn viên, người lao động và các cấp công đoàn nhằm chăm lo tốt hơn cho người nghèo, góp phần cùng Đảng bộ, chính quyền địa phương thực hiện tốt công tác an sinh xã hội, giảm tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn. Xác định được trách nhiệm và cùng chung tay trong công cuộc xóa đói giảm nghèo, giúp người nghèo vươn lên, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Tại buổi phát động, huyện Đồng Văn đã hưởng ứng với các nội dung như: Giảm nghèo đa chiều 16.295 hộ nghèo đa chiều, giảm tỉ lệ hộ nghèo đa chiều 9,6%, hạn chế thấp nhất hộ tái nghèo và hộ nghèo mới phát sinh; giải quyết việc làm cho 3.800 lao động; hỗ trợ kết nối, tư vấn định hướng nghề nghiệp cho người lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo; 100% người thuộc diện hộ nghèo, cận nghèo được hỗ trợ bảo hiểm y tế; tỷ lệ trẻ em thuộc hộ nghèo, cận nghèo đi học đúng độ tuổi đạt trên 98%;….. 

Việc phát động phong trào thi đua nhằm góp phần tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động, ý thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành và toàn xã hội đối với công tác giảm nghèo bền vững; xác định công tác giảm nghèo góp phần quan trọng, tạo động lực cho phát triển bền vững của đất nước, phát triển kinh tế phải gắn với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, đặt con người là trung tâm của sự phát triển trong điều kiện mới. Huy động nguồn lực toàn xã hội thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững.

                                                                               Đức Chung

GƯƠNG NGƯỜI TỐT - VIỆC TỐT

* Những gương điển hình làm kinh tế giỏi bằng các sản phẩm địa phương góp phần phát triển kinh tế, xây dựng quê hương

Nhằm thực hiện thắng lợi những chỉ tiêu về kinh tế - văn hóa - xã hội theo tinh thần nghị quyết Đại hội Đảng bộ thị trấn Phố Bảng, nhiệm kỳ 2020 - 2025, Đảng bộ và nhân dân thị trấn Phố Bảng không ngừng thi đua học tập, làm việc, lao động sản xuất. Có rất nhiều những tấm gương lao động, sản xuất giỏi. Trong bài viết này, chúng tôi xin nêu ra đây hai tấm gương trong số ấy.

Người đầu tiên, chúng tôi muốn giới thiệu một tấm gương về lao động và công tác đó chính là cô giáo Lý Thị Viễn, giáo viên trường mầm non thị trấn Phố Bảng.

Cô Lý Thị Viễn sinh ngày 26/7/1985 tại thị trấn Phố Bảng. Sau khi học xong lớp trung cấp 9+3, khóa 2001-2004, cô đi làm khi mới 19 tuổi tại trường mầm non Niêm Sơn, huyện Mèo Vạc. Trong công việc, cô luôn hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao và tham gia nhiệt tình các phong trào.

Sau 2 năm đi công tác, năm 2006, cô được bổ nhiệm làm Phó hiệu trưởng trường mầm non Nậm Ban, huyện Mèo Vạc. Sau một thời gian, vì lý do sức khỏe, cô đã xin chuyển về trường mầm non Sảng Tủng, huyện Đồng Văn công tác. Đến năm 2011, cô chuyển công tác về trường mầm non thị trấn Phố Bảng. Suốt thời gian công tác tại trường, cô đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Ba năm học liên tục 2019-2020, 2020-2021, 2021-2022, cô đạt danh hiệu Chiến sĩ thi đua cấp cơ sở.

Không chỉ là một giáo viên dạy giỏi ở trường, khi thay những bộ trang phục lên lớp, cô lại bắt tay vào công việc làm ăn kinh tế ở gia đình. Công việc chính cô đang làm đó chính là sản xuất và kinh doanh Bánh đá (theo tiếng địa phương là bánh “lơ khoải”).

Cô chia sẻ với chúng tôi rằng cô bắt đầu bén duyên với buôn bán Bánh đá từ năm 2019. Khi dịch Covid bùng phát, cô biết đến facebook và đăng bán thì được bạn bè trên Facebook ủng hộ và rồi “bùng nổ” các đơn hàng lúc nào không hay. Do số lượng đơn hàng lớn dần, nên cô đã tự mua sắm và lắp đặt máy móc làm bánh phục vụ người tiêu dùng. May mắn hơn, cô được cấp ủy, chính quyền địa phương xây dựng cho gian hàng nhỏ tại ngã ba Lán Xì, xã Phố Cáo để trưng bày giới thiệu các sản phẩm của cô tự làm ra với du khách đến thăm Cao nguyên đá Đồng Văn.

Năm 2021, sản phẩm Bánh đá tham gia thi OCOP cấp tỉnh Hà Giang và đạt 3 sao cho sản phẩm Bánh đá Bắc Viễn. Năm 2022 cô tiếp tục tham gia thi OCOP với sản phẩm đậu xị. Ngoài những sản phẩm chủ lực trên, cô Viễn chia sẻ với chúng tôi rằng, trong tương lai cô sẽ tiếp tục giới thiệu và quảng bá các sản phẩm mang bản sắc địa phương đó là Bánh nhãn, Thịt hun khói, Lạp xường, khâu nhục... đến khách thập phương.

Bằng những nỗ lực của mình, cùng sự hỗ trợ không ngừng nghỉ của chồng, hàng năm, cô thu nhập về cho gia đình một khoản thu nhập vài trăm triệu.

Với sự thành công trong công việc làm ăn, số lượng khách đặt hàng ngày càng tăng lên. Cô Viễn đã tuyển thêm nhân công để hỗ trợ việc sản xuất bánh. Hiện tại, số lượng nhân công cố định đang làm cho cô là 04 người. Những lúc có nhiều đơn hàng cô sẽ tuyển thêm lao động công nhật.

Như vậy, cùng với việc tăng thêm thu nhập cho gia đình, cô cũng góp phần giải quyết công ăn việc làm cho nhiều lao động tại địa phương. Cùng với việc làm ăn kinh doanh giỏi, cô Viễn cũng là người tham gia vào các hoạt động đóng góp vì an sinh xã hội, làm từ thiện, ủng hộ giúp đỡ đồng bào gặp khó khăn.

Tấm gương thứ hai, chúng tôi muốn giới thiệu đó chính là chị Vàng Thị Liên, trú tại thôn Xóm Mới, thị trấn Phố Bảng, chủ cơ sở sản xuất Bánh đá Liên Liên.

Chị Vàng Thị Liên, sinh năm 1991, là một trong những người con xuất sắc của thị trấn Phố Bảng, một người làm kinh tế giỏi, góp phần xây dựng quê hương Phố Bảng giàu đẹp.

Chia sẻ với chúng tôi, chị Liên cho biết, chị bắt đầu việc làm ăn, buôn bán từ năm 2019.

Chị Liên bắt đầu khởi nghiệp từ việc trồng hoa hồng; chị chia sẻ, việc làm hoa mới đầu cũng gặp nhiều khó khăn, vì vốn đầu tư rất lớn mà lại mất 2 năm không có thu nhập, rồi có năm hoa mất mùa, bị lỗ vốn luôn. Từ năm thứ ba trở đi, thu nhập mới bắt đầu gọi là tạm ổn. Nhưng do tình hình khí hậu, thời tiết khắc nghiệt, ít hoa mà hoa lại không được giá nên thu nhập chỉ gọi là đủ ăn.

Nhưng không ngại khó khăn, chị vẫn tiếp tục kiên trì, cần cù lao động. Và chị đã được đền đáp xứng đáng. Chị chia sẻ, có năm hoa được mùa, được giá, trừ đi chi phí ban đầu, chị đem về nguồn thu nhập khoảng 200 triệu đồng. Đó quả là một con số ấn tượng đối một cô gái trẻ như chị.

Ngoài việc trồng hoa hồng, sang năm 2020, chị Liên còn kinh doanh thêm sản phẩm Bánh đá. Chị chia sẻ rằng, năm 2019, chị bán Bánh đá chỉ là nhập về bán nhỏ lẻ. Nhưng rồi, có lẽ vì cái duyên, nên khách hàng đông dần, chị đã chở gạo vào xã Phố Là (cách thị trấn Phố Bảng khoảng 6km) để nghiền bột làm bánh. Rồi, khách hàng ngày càng đông, chị Liên đã bỏ vốn đầu tư máy móc, thiết bị để sản xuất bánh tại nhà. Vì đã có kinh nghiệm, chị Liên đã biết chọn gạo để làm ra những chiếc bánh vừa ngon, vừa dẻo, không chỉ vậy chị còn sáng tạo bằng việc ngâm gạo vào các loại lá, quả để sản xuất ra những chiếc bánh với những màu sắc khác nhau trông rất bắt mắt. Có lẽ, đó cũng là một yếu tố khiến cho khách hàng càng ngày càng yêu mến sản phẩm Bánh đá do cơ sở của chị sản xuất ra.

Hiện tại mỗi một năm, chị Liên xuất ra ngoài thị trường khoảng 40.000 chiếc Bánh đá, mang về một khoản thu nhập khoảng 80 triệu đồng. Hiện chị đang tạo công ăn việc làm cho hơn chục người lao động địa phương.

Ngoài là một tấm gương lao động tích cực, chị Liên cũng tham gia các hoạt động Đoàn của thị trấn cũng như các công tác khác. Chị thường dành một khoản thu nhập để đóng góp tham gia công tác từ thiện, giúp đỡ những hoàn cảnh khó khăn.

Để đạt được những thành công như trên, không phải tự nhiên là có. Những người như cô Viễn, chị Liên đã trải qua những ngày bán nhỏ lẻ, trải qua những lần chưa được như ý. Nhưng qua mỗi lần sản phẩm không được như ý qua sự phản hồi của khách hàng thì các cô, các chị đã xem xét lại khâu sản xuất, đóng gói để rút kinh nghiệm. Qua thời gian, bằng sự nỗ lực của bản thân, các cô, các chị đã tạo ra được thương hiệu cho sản phẩm của mình, đem sản phẩm của mình đến khắp mọi miền của Tổ quốc. 

                                                                                        Thế Đệ 

* Cô gái người Mông và khát vọng đưa “hồn” lanh vươn xa

Đó là em Vàng Thị Dế, sinh năm 2002, hiện là sinh viên năm thứ 3 Trường Đại học Văn hóa Hà Nội. Là cô gái sinh ra từ một bản người Mông nghèo ở xã Thài Phìn Tủng. Không giống bạn bè cùng trang lứa lấy chồng từ sớm, Dế đã “ngược chiều” để xuống Thủ đô học đại học. Sau một lần liều mình bán tấm vải lanh là của hồi môn, không ngờ đó lại là ngã rẽ giúp em tìm được hướng đi của cuộc đời, cũng từ đó giúp em thực hiện được khát vọng mang “hồn” lanh - nét văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc Mông vươn xa.

Với đồng bào người Mông, con gái đến tuổi thì phải lấy chồng. Nhiều bạn học của Dế chỉ học đến lớp 6, lớp 7 đã nghỉ học để làm vợ, làm mẹ. Là chị cả trong gia đình có 4 anh, chị em. Từ nhỏ, Dế đã học rất giỏi và hy vọng việc học sẽ giúp em bước ra khỏi bản làng để chạm tới thế giới rộng lớn bên ngoài kia. Thế nhưng, học hết lớp 9 mẹ em không cho đi học tiếp. Không chịu khuất phục số phận, không đồng tình với quan điểm của mẹ rằng “Học cao thì cuối cùng cũng vẫn về lấy chồng thôi”. Sau nhiều lần thuyết phục mẹ, em được đi học tiếp. Học hết cấp 3, Dế tiếp tục bị ngăn cản thi đại học. Em vẫn cương quyết thi và đỗ vào Trường Đại học Văn hóa Hà Nội.

Một lần nữa, mẹ em vẫn quyết liệt ngăn cản bởi “nhà nghèo, lo ăn còn chưa xong, tiền đâu học đại học”. Dế vẫn quyết tâm: “Nếu mẹ không cho đi, con vẫn sẽ đi, con sẽ cố gắng vừa học vừa làm, không để bố mẹ phải lo lắng”.

Tại Thủ đô, Dế làm đủ thứ việc như phát tờ rơi, phục vụ quán ăn… để có tiền trang trải học hành. Năm 2021, dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, em mắc kẹt tại Hà Nội vì giãn cách xã hội, tháng 10/2021, cô gái trẻ trở về Hà Giang.

“Một buổi chiều muộn, khi lên gác dọn dẹp, em thấy những tấm vải lanh rất đẹp được cất một góc. Đây là loại vải truyền thống của đồng bào người Mông. Đây cũng là tấm vải lanh của hồi môn mẹ em cất giữ, dành tặng em để may váy khi cưới chồng. Thời điểm đó, kinh tế gia đình em vẫn rất khó khăn nên đã mạnh dạn hỏi mẹ để bán những tấm vải ấy. Sau đó, đăng bán trên trang Facebook cá nhân. Em rất bất ngờ khi vừa đăng thì đã có người đặt đơn hàng đầu tiên trị giá 560.000 đồng”, Dế kể. Đặc biệt, sau khi nhận được hàng Dế gửi, vị khách rất ưng và mua hết số vải lanh em có. Thuận lợi bước đầu ấy đã khiến Dế nảy ra ý định kể những câu chuyện về vải lanh truyền thống của dân tộc mình nhằm quảng bá văn hóa, đưa vải lanh của người Mông vượt ra khỏi vùng Cao nguyên đá đến mọi miền Tổ quốc và ra thế giới.

Nghĩ là làm, Dế đến từng nhà trong thôn gom vải, sau đó Dế lại cần mẫn đăng lên trang Facebook cá nhân “tìm chủ mới”. Sau một thời gian, cô gái Mông ấy đã thành công đưa vải lanh truyền thống của dân tộc mình theo chân các vị khách xuống miền xuôi, vào Nam, ra Bắc, vươn ra thế giới. Hiện, khách mua vải lanh của Dế chủ yếu là khách nước ngoài. Dế tâm sự: “Từng có khách sống ở Mỹ đặt em đơn hàng vải lanh giá trị lên tới hơn 50 triệu đồng. Em vừa mừng vừa lo vì không có vốn để nhập hàng, rồi giao hàng ra nước ngoài bằng cách nào. Rất may là sau đó chị khách chủ động nhắn tin cho em chuyển tiền cọc trước, người thân của họ ở Việt Nam cũng liên hệ trao đổi trực tiếp với em nên đơn hàng tưởng là khó khăn đó lại vô cùng thuận lợi”. Tuy nhiên, cũng có đơn hàng lớn từ nước ngoài khiến Dế lao đao. Đó là lần Dế phải vay 40 triệu đồng, rồi mất 2 tuần liền đi khắp các nhà thu mua vải gửi cho khách nhưng đơn hàng ấy bị hoàn lại. Dế phải thanh lý lỗ vốn rồi xoay xở đủ cách mới trả được khoản vay. Có thành công cũng sẽ có thất bại và động lực để Dế tiếp tục công việc của mình đó là khi nhận được lời khen từ những vị khách hàng khó tính, hay đơn giản chỉ là nhìn thấy nụ cười tươi rói của những người phụ nữ Mông khi có thêm thu nhập.

Trân quý những giá trị truyền thống của dân tộc mình, nhưng cũng lo lắng trước sự mai một của nghề dệt lanh truyền thống, Dế luôn trăn trở làm sao để vải lanh có thể trở thành hàng hóa mang lại thu nhập cải thiện đời sống cho bà con và gìn giữ nghề cho thế hệ sau. Vì thế, Dế đã “khai sinh” Dự án “Hemp Hmong Việt Nam” (Cây lanh của người Mông Việt Nam) nhằm cung cấp vải lanh thô cho các cá nhân, cửa hàng thời trang, nhà thiết kế… yêu thích loại vải đông ấm, hè mát này. Đồng thời, thiết kế những sản phẩm thời trang từ chất liệu vải lanh như túi, khăn, áo… dựa trên sự kết hợp tính truyền thống và hiện đại để ứng dụng trong cuộc sống hàng ngày. Ngoài ra, Hemp Hmong Việt Nam còn nhận thiết kế sản phẩm theo yêu cầu riêng của khách hàng. Dế luôn tin rằng quảng bá vải lanh truyền thống của dân tộc mình là một sứ mệnh mà em sẽ nỗ lực thực hiện.

Nhờ những tấm vải lanh, gia đình Dế đã vượt qua giai đoạn khó khăn về kinh tế, trang trải cho việc học. Cũng chính nhờ đó mà Dế đã giúp nhiều gia đình đồng bào Mông tăng thêm thu nhập. Được biết, hiện đơn hàng mua vải khá đều, Dế đã giúp chị em phụ nữ mông tiêu thụ khoảng 10.000 m vải lanh mỗi tháng, có thêm 20-30 triệu đồng/năm. Số tiền không quá lớn nhưng lại là cả gia tài với những người phụ nữ Mông vốn chỉ quanh năm cặm cụi trên nương rẫy.

Hemp Hmong Việt Nam là dự án chứa tâm huyết lớn lao của cô gái Mông 21 tuổi. Hiện tại, đó không chỉ là một nơi để em bán hàng mà là nơi để em có thể đưa vải lanh vươn xa ra thế giới, để mọi người biết những công đoạn dệt ra tấm vải lanh và hơn cả là bề dày văn hóa của người Mông. Dế đặt ra mục tiêu sau khi tốt nghiệp đại học sẽ trở về quê hương để khởi nghiệp, thành lập một Hợp tác xã nhỏ kết hợp làm du lịch, vừa giúp quảng bá văn hoá địa phương, đặc biệt là vải lanh, vừa tạo công ăn việc làm nhiều hơn cho bà con quê hương. Mong rằng, với những nỗ lực và tâm huyết ấy, cô gái người Mông Vàng Thị Dế sẽ đạt được những khát vọng đưa “hồn lanh” vươn xa hơn.

                                                                           My Ly

THÔNG TIN TUYÊN TRUYỀN

* Xây dựng Nông thôn mới ở Đồng Văn

Với đặc thù là huyện biên giới khó khăn, Đồng Văn đã và đang tích cực triển khai đồng bộ các giải pháp, huy động mọi nguồn lực để vượt khó xây dựng Nông thôn mới (XDNTM). Điều này góp phần hiện đại hóa hạ tầng nông thôn, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân.

Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 BCH Trung ương Đảng khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn và các quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia (MTQG) về XDNTM, giai đoạn 2010 - 2020 và 2016 - 2020; Nghị quyết số 04-NQ/TU của BCH Đảng bộ tỉnh về XDNTM đến năm 2020, huyện Đồng Văn đã huy động tối đa sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, phát huy vai trò chủ thể của người dân. Qua đó, tạo sự chuyển biến tích cực về nhận thức và hành động trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đặc biệt, từng người dân và cộng đồng ngày càng thấy được lợi ích thiết thực và đã tích cực tham gia XDNTM. Điều đó được minh chứng bằng kết quả xã Lũng Cú đã đạt chuẩn NTM năm 2020; 10/17 xã hoàn thành tiêu chí giao thông, 17/17 xã hoàn thành tiêu chí thủy lợi, 14/17 xã hoàn thành tiêu chí điện, 17/17 xã hoàn thành tiêu chí giáo dục, tiêu chí hệ thống chính trị và tiếp cận pháp luật. Đến nay, toàn huyện đạt được 216 tiêu chí, bình quân đạt 12,7 tiêu chí/xã, có 2 xã Sà Phìn, Sủng Là đạt trên 15 tiêu chí, 14 xã còn lại đạt trên 11 tiêu chí; có 22/197 thôn đạt chuẩn NTM. Thu nhập bình quân đạt 16,48 triệu đồng/người/năm; tỷ lệ hộ nghèo bình quân giảm 6%/năm.

Đồng chí Hoàng Văn Thịnh, Bí thư Huyện ủy Đồng Văn cho biết: để phát huy nội lực, tạo đà XDNTM theo hướng bền vững, huyện xác định XDNTM là nhiệm vụ trọng tâm. Do đó, huyện đã huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị; phát huy vai trò của người đứng đầu; tạo sự thống nhất trong nhận thức và hành động, sự đồng thuận trong xã hội, phát huy tính năng động, sáng tạo, chủ động tham gia trực tiếp của người dân; thực hiện lồng ghép hiệu quả các nguồn lực đầu tư từ ngân sách nhà nước cùng với huy động nguồn lực xã hội hóa để xây dựng NTM đảm bảo đồng bộ, hiệu quả; từng bước hoàn thiện kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; góp phần giảm nghèo nhanh và bền vững, mang đậm bản sắc văn hóa truyền thống địa phương, trọng tâm là nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân.

Đến năm 2025, huyện phấn đấu đạt tỷ lệ 100% số thôn biên giới đạt tiêu chí về điện và tiêu chí giao thông; có thêm 2 xã đạt chuẩn NTM; xã Phố Là đạt chuẩn vào năm 2024, xã Sủng Là đạt chuẩn vào năm 2025, nâng tổng số xã đạt chuẩn NTM 3/17 xã, đạt 17,64%. Số thôn đạt chuẩn NTM tăng thêm 113 thôn; nâng tổng số thôn đạt chuẩn NTM trên địa bàn huyện lên 119 thôn/197 thôn, đạt 60,4%. Nâng tiêu chí hoàn thành thêm 29 tiêu chí, tổng tiêu chí trên địa bàn huyện đạt 245 tiêu chí, bình quân đạt 14,4 tiêu chí/xã, không còn xã hoàn thành dưới 13 tiêu chí. Riêng trong năm 2023, huyện phấn đấu hoàn thành tăng thêm 12 tiêu chí, khắc phục hoàn thành 11 tiêu chí còn thiếu nội dung so với bộ tiêu chí của giai đoạn 2021-2025, nâng tổng số tiêu chí đạt là 214 tiêu chí, bình quân 12,58 tiêu chí/xã; thực hiện 32 thôn đạt từ 10 tiêu chí trở lên, trong đó tăng thêm 21 thôn đạt chuẩn NTM, nâng tổng số thôn đạt chuẩn là 33 thôn. Sau hơn 12 năm XDNTM, bộ mặt nông thôn huyện Đồng Văn ngày càng khởi sắc. Đời sống người dân từng bước được cải thiện, hệ thống cơ sở vật chất được đầu tư xây dựng khang trang, đường giao thông nông thôn bê tông hóa, từ đó tạo đà để huyện bứt phá vươn lên.

                                                                Dương Ngọc Đức 

* Một số nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới

- Chuẩn bị các điều kiện và chỉ đạo tổ chức thành công Đại hội Công đoàn và Hội Nông dân cấp huyện, nhiệm kỳ 2023 - 2028; tập trung lãnh đạo, chỉ đạo sơ kết giữa nhiệm kỳ thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng các cấp, nhiệm kỳ 2020-2025 triển khai thực hiện từ xã đến huyện; sơ kết đánh giá kết quả triển khai thực hiện Chỉ thị số 09-CT/TU và Nghị quyết số 27-NQ/TU của Tỉnh ủy; sơ kết 02 năm thực hiện Chỉ thị số 08-CT/HU của Ban Thường vụ Huyện ủy.

- Chỉ đạo rà soát, bổ sung quy hoạch chức danh cán bộ lãnh đạo quản lý, nhiệm kỳ 2020-2025; 2021-2026 và nhiệm kỳ 2025-2030; 2026-2031 năm 2023. Tiếp tục quan tâm chỉ đạo nâng cao chất lượng sinh hoạt các chi bộ thôn, tổ dân phố, chi bộ cơ quan; tăng cường công tác theo dõi kiểm tra, giám sát các tổ chức cơ sở đảng và đảng viên. Thực hiện hiệu quả công tác dân vận, phát huy vai trò Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội từ huyện đến cơ sở.

- Chỉ đạo tiếp tục thực hiện có hiệu quả công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực tài nguyên và môi trường; công tác quản lý quy hoạch, xây dựng, đô thị và trật tự xây dựng trên địa bàn (xử lý sai phạm dứt điểm, không xử phạt cho tồn tại); các điểm khai thác đá làm vật liệu xây dựng thông thường; hàng nhái, hàng giả, hàng kém chất lượng, hàng không rõ nguồn gốc xuất xứ dán nhãn mác địa phương... Tiến độ, chất lượng các công trình trọng điểm trên địa bàn huyện; tiến độ đền bù giải phóng mặt bằng các công trình..

- Chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn thực hiện 03 chương trình mục tiêu Quốc gia năm 2023 theo phương châm rễ làm trước, khó làm sau, gắn với các nghị quyết chuyên đề của tỉnh như: Nghị quyết về cải tạo vườn tạp...; đảm bảo tiến độ và hiệu quả nguồn vốn; thực hiện Cải tạo vườn tạp; xóa bỏ hủ tục lạc hậu; xây dựng nông thôn mới; giải quyết việc làm...

- Tiếp tục nâng cao chất lượng các sản phẩm du lịch, nâng cao chất lượng các dịch vụ nhằm thu hút phát triển du lịch, dịch vụ; chỉ đạo khảo sát, xây dựng các làng văn hoa du lịch cộng đồng gắn xây dựng nông mới, kết nối gữa các làng văn hoá du lịch cộng đồng tạo thành các tua tuyến thúc đẩy du lịch của huyện phát triển, thu hút du khách khám phá, trải nghiệm.

- Thực hiện tốt công tác tiếp công dân; tiếp xúc, đối thoại với nhân dân; giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo tránh để tồn đọng kéo dài gây bức xúc trong nhân dân; tăng cường công tác quản lý cư trú; đảm bảo an toàn giao thông; thường xuyên theo dõi, nắm bắt dư luận xã hội, góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, đặc biệt là tình trạng tham nhũng vặt. Tiếp tục duy trì nghiêm chế độ sẵn sàng chiến đấu, nắm chắc tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội đặc biệt là địa bàn xã biên giới; chuẩn bị công tác cho diễn tập khu vực phòng thủ của huyện năm 2023.

                            (Trích Kết luận số 3122-KL/HU, ngày 21/3/2023 

                                           của Ban Thường vụ Huyện ủy)

ĐỊNH HƯỚNG MỘT SỐ NHIỆM VỤ 

TRỌNG TÂM THÁNG 4/2023

1. Tiếp tục tuyên truyền việc triển khai thực hiện nghị quyết đại hội đảng các cấp tại địa phương, đơn vị; kết quả Kỳ họp thứ 11 (chuyên đề) Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Giang khóa XVIII, nhiệm kỳ 2021 - 2026, trong đó tập trung tuyên truyền các nội dung cốt lõi 14 nghị quyết được thông qua tại Kỳ họp...

2. Tuyên truyền kết quả đại hội, việc triển khai thực hiện các phong trào thi đua lập thành tích chào mừng đại hội công đoàn và đại hội hội nông dân cơ sở, Đại hội Công đoàn cấp huyện nhiệm kỳ 2023 - 2028; tiến tới Đại hội cấp tỉnh lần thứ XVI, nhiệm kỳ 2023 - 2028, Đại hội đại biểu Hội Nông dân huyện nhiệm kỳ 2023 - 2028, tiến tới Đại hội lần thứ X tỉnh Hà Giang, nhiệm kỳ 2023 - 2028.

3. Tuyên truyền, vận động cán bộ, đảng viên, nhân dân quan tâm, tích cực tham gia các giải/cuộc thi, như: Giải báo chí về xây dựng Đảng (Giải Búa liềm vàng) của Đảng bộ tỉnh Hà Giang lần thứ II, năm 2023; Cuộc thi Chính luận bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch năm 2023; Giải báo chí toàn quốc về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực lần thứ tư, năm 2022 - 2023; Cuộc thi trắc nghiệm trực tuyến tìm hiểu tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

4. Tuyên truyền việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội quý II năm 2023. Trong đó chú trọng tuyên truyền công tác tổ chức triển khai thực hiện các chương trình, dự án trọng điểm của huyện, xã, thị trấn; việc triển khai thực hiện các giải pháp nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện 3 chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021 - 2025 tại địa phương; đẩy mạnh tuyên truyền thực hiện các tiêu chí như: Nâng cao thu nhập, giảm hộ nghèo, tạo cảnh quan, vệ sinh môi trường nông thôn.

5. Tuyên truyền kết quả Hội nghị thường niên lần thứ 3 giữa các Bí thư Tỉnh ủy và Phiên họp lần thứ 9 Nhóm Công tác liên hợp giữa các tỉnh Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên (Việt Nam) và tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), trong đó chú trọng thông tin tuyên truyền đánh giá tại Hội nghị về kết quả triển khai thực hiện các văn bản hai bên đã ký kết tại Hội nghị trong năm 2022; định hướng triển khai, giao lưu, hợp tác trong năm 2023.

Truyên truyền việc triển khai công tác đối ngoại kinh tế với phía nước bạn Trung Quốc nhằm thúc đẩy hoạt động thông quan hàng hóa qua các cặp cửa khẩu biên giới và khôi phục mở cửa lại các cặp chợ biên giới; tuyên truyền, quảng bá các hàng hóa chủ lực của địa phương gắn với tuyên truyền phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn.

6. Tuyên truyền các chính sách về giáo dục nghề nghiệp, lao động việc làm, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, an toàn vệ sinh lao động, các quy định khác liên quan đến người lao động, nhất là các hoạt động tư vấn việc làm và đưa người lao động đi làm việc tại các khu, cụm công nghiệp trong nước và xuất khẩu lao động. Đồng thời, tuyên truyền định hướng nhằm tạo nguồn nhân lực đi lao động ở nước ngoài theo hợp đồng (điều kiện về trình độ ngoại ngữ, nghề nghiệp...)

7. Tiếp tục tuyên truyền rõ về các điều kiện để doanh nghiệp, hộ kinh doanh triển khai hình thức hóa đơn điện tử, nhấn mạnh lợi ích của việc áp dụng hóa đơn điện tử từ máy tính tiền qua nhiều kênh thông tin đảm bảo người dân, doanh nghiệp dễ tiếp cận; thông tin Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh Hà Giang công khai số điện thoại, đường dây nóng, địa chỉ hộp thư điện tử tiếp nhận, xử lý thông tin phản ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ chức liên quan đến hoạt động đại lý bảo hiểm của các tổ chức tín dụng trên địa bàn huyện.

8. Tuyên truyền về Ngày hội hiến máu nhân đạo “Giọt hồng miền đá” lần thứ VI, hưởng ứng Ngày “Toàn dân hiến máu nhân đạo 7/4” năm 2023, trong đó tập trung tuyên truyền về các hoạt động tổ chức Ngày hiến máu nhân đạo, ý nghĩa nhân văn của hiến máu nhân đạo, gương điển hình tham gia hiến máu nhân đạo của địa phương; tuyên truyền, quảng bá du lịch Hà Giang với cảnh quan thiên nhiên, di sản, nét văn hóa truyền thống đặc sắc gắn với tuyên truyền bảo vệ môi trường; việc tổ chức các hoạt động quảng bá, thu hút khách du lịch đến Hà Giang.

9. Tuyên truyền nội dung cốt lõi, việc triển khai thực hiện Quyết định số 1609/QĐ-TTg, ngày 26/12/2022 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chương trình “Hỗ trợ phát triển giáo dục mầm non vùng khó khăn giai đoạn 2022-2030”, trong đó đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến về sự cần thiết, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp thực hiện của Chương trình; tuyên truyền nâng cao nhận thức việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, tăng cường tiếng Việt trên cơ sở tiếng mẹ đẻ của trẻ; tuyên truyền các gia đình dân tộc thiểu số tạo điều kiện cho con, em đến trường, lớp mầm non và học 2 buổi/ngày...

10. Tuyên truyền và phổ biến cho người dân nâng cao cảnh giác trước thủ đoạn tinh vi của các đối tượng xấu nhằm vào tâm lý, lợi dụng lòng tin, mạo danh giáo viên, nhân viên y tế. thông qua mạng viễn thông để lừa đảo, chiếm đoạt tài sản. Cùng với đó, chủ động thông tin tuyên truyền phản bác lại thông tin chưa đúng sự thật, chưa khách quan, luận điệu xuyên tạc thành quả phát triển kinh tế - xã hội, công tác xây dựng đảng..., làm giảm uy tín của Đảng, Nhà nước, chính quyền địa phương, đơn vị; tiếp tục thông tin, tuyên truyền đồng bộ về chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; thành tựu của Việt Nam, tỉnh Hà Giang nói chung; huyện Đồng Văn và các địa phương nói riêng trong công tác dân tộc, tôn giáo, phát triển kinh tế - xã hội, qua đó khẳng định Việt Nam luôn đảm bảo thực hiện tốt dân chủ, nhân quyền.

11. Tuyên truyền công tác phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, hàng kém chất lượng; cùng với đó tiếp tục tuyên truyền cán bộ, đảng viên, nhân dân hiểu rõ và tích cực tham gia Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”; tuyên truyền chủ động phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, phòng cháy, chữa cháy và bảo vệ môi trường.

12. Tuyên truyền các sự kiện, ngày lễ, ngày kỷ niệm, như: Giỗ Tổ Hùng Vương (mùng 10 tháng 3 âm lịch); kỷ niệm 48 năm ngày Giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2023); 137 năm ngày Quốc tế Lao động (01/5/1886 - 01/5/2023); 69 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (07/5/1954 - 07/5/2023).

 

BAN TUYÊN GIÁO HUYỆN ỦY ĐỒNG VĂN

TTTĐT

Tin khác

Liên kết website

Thống kê truy cập